Thẩm phán Phạm Đình Hưng
Tình hình đất nước Việt Nam hiện nay vô cùng bi đát về mọi mặt.
Dưới quyền cai trị độc tài chuyên chính và toàn trị của đảng Cộng
sản Việt Nam từ 34 năm nay, nước Việt Nam hiện là một trong 10 nước
nghèo nhứt trên thế giới và đang tự nguyện đưa đầu vào ách thống
trị của Trung Quốc.
Hôm nay, tôi xin nói về một chủ đề nóng bỏng. Đó là Nguy Cơ Mất
Nước và Mất Dân Tộc Việt Nam đang ló dạng trên quê hương thân yêu
của chúng ta. Mới đây, trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả
Đinh Quang Anh Thái, ông Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ ở Đà Lạt cũng đã nói lên nguy cơ “Mất nước và
Mất dân tộc” (23).
Ngay từ năm 1962, chánh trị gia Ngô Đình Nhu, cố vấn chánh trị của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã có một nhận
định chính xác về tương lai của nước Việt Nam. Trong quyến sách
biên khảo rất công phu tựa đề “Chánh Đề Việt Nam tác giả Ngô Đình Nhu đã khẳng định rằng trong cuộc chiến
tranh nồi da xáo thịt giữa Bắc Việt cộng sản (nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa) và Miền Nam tự do (nước Việt Nam Cộng Hòa), nếu Bắc Việt thắng thì cả nước Việt Nam sẽ lệ thuộc Trung Quốc. Lời tiên đoán nay của nhà chánh trị Ngô Đình Nhu ngày nay đã trở
thành một sự thật đau lòng cho tất cả người Việt, ở trong nước và
ngoài nước.
Hai cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài 30 năm từ 1945 đến 1975 đã xảy ra trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh (Cold War) giữa Thể giới Tự do và hệ thống các nưóc xã hội chủ
nghĩa.Theo tác giả Ngô Đình Nhu, nguyên nhân sâu xa của hai cuộc
chiến tranh thảm khốc nầy là sự xung đột lâu đời của nước Nga với các nước Tây Âu và sự thù hận của
Trung Quốc đối với các nước trong Bát Quốc Liên Quân đã tấn công và xâu xé nước Trung Hoa vào đầu thế kỷ 20. Thua kém
các nước Tây Âu và Bắc Mỹ về mặt khoa học kỹ thuật, hai đế quốc
cộng sản Liên xô và Trung Quốc đã lợi dụng chủ nghĩa cộng sản của
hai người Đức ở Tây Âu (Karl Marx và Frederic Engels) như một phương tiện để đánh phá các nước Tây phương từ trong nội bộ
của các nước tư bản và từ các thuộc địa của các nước nầy ở châu Á và châu Phi. Riêng tại Việt Nam, Liên Xô và Trung Quốc
đã sử dụng một cán bộ cộng sản Đệ tam Quốc tế (Comintern) từ năm 1924 là Hồ Chí Minh (Hồ Quang) để tiến hành chiến tranh đánh
phá Pháp và Hoa Kỳ nhằm mục đích bành trướng chế độ cộng sản trên
khắp ba nước Đông Dương và Đông Nam Á.Hai cuộc chiến tranh gọi là “giải phóng dân tộc” và “thống nhứt đất
nước” thật sự là hai cuộc chiến tranh “ủy nhiệm” do hai đế quốc
cộng sản Nga-Hoa chỉ đạo và viện trợ để phục vụ quyền lợi của họ.
Trong hai cuộc chiến tranh Việt Nam, vai trò và ảnh hưởng của Trung
Quốc lớn hơn Liên xô vì các lý do sau đây:
1) Giáp giới Việt Nam, Trung Quốc là một đại quốc luôn luôn có tham vọng xác lập địa vị mẫu quốc đối với Việt Nam. Nhưng Trung Quốc đã mất ảnh hưởng đối với Việt Nam từ giữa
thế kỷ 19. Giúp đỡ cho đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành chiến tranh
sau đệ nhị Thế chiến tức là giúp đỡ cho Trung Quốc tái lập ảnh
hưởng đối với Việt Nam.
Đẻ tránh đụng chạm với Pháp, Liên xô từ 1945 đến 1950 đã không công nhận chánh quyền Hồ Chỉ Minh; Josef Stalin năm 1951 chỉ đồng ý cho Trung Quốc viện trợ đảng Cộng sản Việt Nam
đánh Pháp nhưng từ chổi viện trợ trực tiếp cho Hồ Chí Minh. Trái lại, ngay sau khi thống nhứt nước Trung Iloa năm 1949, Mao
Trạch Đông đã lập tức công nhận chánh quyền Hồ Chí Minh năm 1950 và viện trợ dồi dào cho
đảng Cộng sản Việt Nam về võ khí, lương thực, thuốc men, nhân lực (cố vấn chánh trị, cố vấn quân sự,
binh sĩ) và huấn luyện đào tạo các cấp chỉ huy Việt Minh Viện trợ
quân sự của Trung Hoa đã “giải tỏa Việt Minh khỏi vòng vây của quân
đội Pháp”. Giải phóng quân Trung Quôc còn chủ động tham gia các
trận đánh lớn ở Đông Khê, Thất Khê và Điện Biên Phủ dưới quyền chỉ
huy của hai tướng Trần Canh và Vi Quốc Thanh. Chiến thắng Điện biên
phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954 đã giúp cho đảng Cộng sản Việt Nam
chiếm được nửa nước Việt Nam (24).
Trong cuộc chiến tranh gọi là “chống Mỹ, cứu nước” từ năm 1956 đến
năm 1975, Trung Quốc đã tăng cường viện trợ vô cùng hùng hậu cho
Bắc Việt cộng sản về phương tiện chiến tranh và chuyên viên phòng
không, đồng thời cho quân Tàu trú đóng tại các tỉnh biên giới
Việt-Trung để gìn giữ an ninh lãnh thổ giúp cho quân đội Bắc Việt
điều động xuống chiến trường miền Nam Việt Nam. Liên Xô chỉ viện
trợ (có hoàn lại) cho Bắc Việt một số võ khí nặng ( phi cơ, chiến
xa, đại pháo) trị giá 10 tỷ đô la.
2) Sau khi từ Moscow về Diên An (thủ đô của Hồng quân Trung Quốc) năm 1938,Hồ Quang đã tận tình phục vụ Trung Quốc nhiều hơn Liên xô vì ông ta đã bị thất sủng trong một thời gian dài từ 1932 đến 1938 và
suýt bị Stalin giết chết năm 1935. Theo tiết lộ của tướng Tàu Lương Quang Liệt
trong một cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tống Cục
2 Việt Nam, Hồ Chí Minh là đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc. Khi trở về hoạt động tại Hoa Nam và trong hang Pác Bó ở tỉnh Cao
Bằng, Hồ Chí Minh đã thi hành nhiệm vụ của một đảng viên do đảng
Cộng sản Trung Quốc giao phó. Ngoài viên Chánh ủy Tống Cục Tình báo
Hoa Nam Lương Quang Liệt, một nhân vật cao cấp trong phái đoàn
thương thuyết của Trung Quốc về ranh giới mới trên đất liền và biển
cả giữa Trung Quốc và Việt Nam còn đe dọa Trung Quốc sẽ công bốcác bỉ mật của Hồ Chí Minh để xóa tan huyền thoại của ông ta và đảng Cộng sản Việt Nam.
II - Tham vọng bá quyền của Trung Quốc và các hành động bản nước của
đảng Cộng sản Việt Nam
Từ ngàn xưa, Hán tộc luôn luôn nuôi tham vọng bành trướng xuống
phía Nam và tìm đường đi ra biển từ hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây.
Nhưng họ đã vấp phải sự đối kháng mãnh liệt và hữu hiệu của dân tộc
Lạc Việt, một dân tộc thông minh và kiêu dũng trong dòng Bách Việt
ở phía Nam sông Dương Tử đã bẻ gãy tất cả các cuộc xâm lăng võ
trang từ phương Bắc để bảo tồn độc lập của nước Văn Lang (tên nước
đầu tiên của Việt Nam).
Trước tham vọng bành trướng xuống phía Nam của Trung Quốc hiện nay,
Việt Nam là nạn nhân đầu tiên của thiên triều Bắc kinh. Từ xưa đến
nay, người Tàu luôn luôn xem nước Việt Nam là một quận, huyện của
Trung Quốc. Trải qua 2000 năm lịch sử, nước Việt Nam chúng ta đã
phải hứng chịu nhiều đau khổ và tũi nhục trong 1000 năm Bắc thuộc
trước khi Ngô Quyền tranh thủ được nền độc lập của nước nhà năm
938. Tổ tiên chúng ta đã bao lần anh dũng chống ngoại xâm từ phương
Bắc để gìn giữ độc lập của nước nhà và duy trì sự toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc Việt Nam. Tinh thần quốc gia dân tộc của tổ tiên chúng
ta rất vững mạnh và kiên cường. Thành tích giữ nước vẻ vang của Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi và Quang Trung Nguyễn Huệ đã
nhắc nhở người Việt Nam chúng ta đương thời nhiệm vụ chiến đấu để
bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc Việt Nam chống lại âm mưu thôn tính của Trung Quốc với sự tiếp
tay của bọn tay sai bán nước là đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay, Trung Quốc đã áp dụng một chiến lược thôn
tính Việt Nam rất tinh vi và hiểm độc. Đe thực hiện dễ dàng tham
vọng bành trướng xuống phía Nam của Trung Quốc, người Tàu cần
phải phá tan tinh thẩn đoàn kết của người Việt Nam và tiêu diệt sinh lực của dân
tộc Việt. Nhằm mục đích thâm độc nây, đảng Cộng sản Trung Quôc đã sai khiến Hồ
Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam liên tục tiến hành chiến tranh
trong 30 năm để tàn phá nặng nề đất nước Việt Nam, giết chết cả
chục triệu người dân Việt và chia rẽ dân tộc Việt về ý thức hệ,
thành phần giai cấp, địa phương, tôn giáo và đảng phái. Cuộc xâm lăng Việt Nam của Trung Quắc đã thật sự bắt đầu từ năm
1950 với kế hoạch viện trợ cho Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Viêt Nam đánh
Pháp để chiếm đoạt quyền lãnh đạo quốc gia. Trong thời gian viện
trợ cho Việt Cộng gây nội chiến dưới chiêu bài đánh đuổi thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, Trung Cộng đã có đủ thời giờ điều nghiên các vị
trí chiến lược trọng yếu của Việt Nam và bố trí cán bộ gốc Hoa và thân Tàu vào các chức vụ chỉ huy trong Quân đội, Công an, Tình báo, bộ máy Nhà nước và các cấp
ủy đảng đế sẵn sàng thực hiện âm mưu thôn tính Việt Nam. Đồng thời
với việc âm thầm chỉ đạo Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam, Trung
Quốc đã áp dụng chiến lược “Diễn Biến Hòa Bình” để từng bước lấn
chiếm lãnh thố Việt Nam thay vì sử dụng võ lực tấn công ồ ạt như đã làm trong quá khứ. Với sự hợp tác tự nguyện của Hô Chí
Minh, hậu duệ của ông ta và tập đoàn lãnh đạo đảng Cộng sản Việt
Nam, kế hoạch tầm ăn dâu nầy của Trung Quôc đã đạt nhiều kết quả
trong âm mưu đô hộ Việt Nam. Theo lịnh của Trung Quốc, Hồ Chí Minh
và đảng Cộng sản Việt Nam đã đả kích chủ nghĩa dân tộc (nationalism) là cục bộ địa phương cần phải gạt bỏ và thay thế bằng chủ
nghĩa quốc tế đại đồng. Để phục vụ thiên triều Bắc kinh, Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản
Việt Nam đã không ngần ngại dâng hiến quan thầy Tàu một phần đáng kê lãnh thố do tiền nhân chúng la dày công xây đápvà bảo vệ. Các hành động bán nước kể sau của 1Iồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam cần phái được phơi bày ra
trước ánh sáng để lịch sử và các thế hộ trẻ Việt nam sanh sau năm 1975 cùng thế
giới văn minh phán xét:
1)Chuyến nhuợng cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa vù Trường Sa
Do quyết định của Hồ Chí Minh và bộ Chánh trị đảng Cộng sản Việt
Nam, Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc cộng
sản), Phạm văn Đồng đã chánh thức gởi đến Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc
Chu Ân Lai giác thư ngày 14 tháng 9 năm 1958 ủng hộ bản Tuyên bố ngày 4
tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc xác định chủ quyền của nước nầy
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vào thời điểm nầy, hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt
Nam Cộng Hòa (miền Nam tự do) vỉ nằm dưới vĩ tuyến 17. Khi Hải quân
Trung Quốc tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa và bị Hải quân Việt Nam
Cộng Hòa chận đánh ngày 19 tháng 1 năm 1974 để bảo vệ sự toàn vẹn
của lãnh thổ Việt Nam, Hà nội đã giữ thái độ im lặng hoàn toàn.
Quyết định bán nước và thái độ bàng quang của Hà nội đã chứng minh
Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đặt quyền lợi của Cộng sản quốc tế trên quyền lợi quốc gia. Đây là hành động phản bội Tổ quốc đầu tiên của đảng Cộng sản Việt
Nam đã phạm trong thời bình để trả nợ chiến tranh cho Trung Quốc và đền đáp ơn nghĩa của
Trung Quốc đã giúp đỡ Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam lên
ngai vàng tại Bắc bộ phủ và ngự trị trên miền Bắc Việt Nam sau
chiến thắng Điện biên phủ nhờ sự trợ giúp của tướng Trung Quốc Vi
Quốc Thanh và pháo binh Trung Cộng. Tham vọng quyền lực đã thúc đấy
Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam tích cực phục vụ Trưng Quốc,
mở đường cho Hán tộc bành trướng xuống Đông Dương và Đông Nam Á,
tiến chiếm biển Đông (South China Sea), dặt căn cứ hải quân trên quần đảo Hoàng Sa, khống chế con dường đi
ra hải phận quốc tế của Việt Nam và kiếm soát giao lưu hàng hải
quốc tế giữa Thái bình dương và Án độ dương. Quyết dịnh chuyến
nhượng âm thầm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc chứng tỏ đảng Cộnư sản Việt Nam tự xem như là chủ nhân thật sự của đất nước Việt Nam có quyền cho không hay bán một phân lãnh thố mà không cần phải thông báo
Quốc Hội hay xin Quốc Hội phê chuẩn. Hậu quả của giác thư Phạm văn Đồng năm 1958 vô cùng trầm
trọng. Hiện nay, chúng ta không thể biết ngày nào cỏ thể thâu hồi
quần đảo Hoàng Sa về Tổ quốc Viêt Nam. Ngày đó chỉ đến sau khi đế quốc cộng sản Trung Hoa tan rã.
2)Cắt đất ở biên giới Việt-Hoa dâng cho Trung Quốc.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, đảng Cộng sản là một nhà cầm
quyền đã dám cắt một phần đất của Tổ Quốc để dâng cho ngoại bang
bất chấp luật pháp nghiêm minh của tiền nhân: trong Quốc Triều Hình
Luật do Nguyên Trải soạn thảo có một điêu khỏan phạt tử hình người dân bản đất thuộc
quyền sở hữu của mình cho ngoại nhân.
Sau chuyến đi năm 1992 của bộ ba Đỗ Mười-Lê Đức Anh- Phạm văn Đồng
đến Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, cầu hòa và dập đầu xưng thần với
thiên triều Bắc kinh, đảng Cộng sản Việt Nam đã chuấn bị một cống
phẩm đầu tiên để lấy lòng quan thầy: dâng hiến Trung Quốc một phần đất liền dọc theo sáu tỉnh biên giới
Việt-Hoa coi như trả một phân món nợ viện trợ của Trung Quốc trong
cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ hai để đánh chiếm miền Nam, đào
sâu thêm hận thù dân tộc và giết chết thêm cả chục triệu người Việt
Nam vô tội. Cống phẩm này đã được dâng lên Bắc kinh bằng việc ký kết hiệp ước phân định lại
biên giới Việt Hoa ngàỵ 30-12-1999 theo chỉ thị củaLê Khả Phiêu, người lãnh tụ số 1 của đảng Cộng sản Việt Nam đã bị Bắc kinh sai
khiến một cách dễ dàng vì đã lở dại sa vào mỹ nhân kế của người
Tàu. Được Quốc Hội bù nhìn phê chuẩn nhanh chóng, hiệp ước bán nước
nay đã chuyến nhượng cho Trung Quốc trên 1,000 kí lô mét vuông đất liền ở
biên giởi Việt Hoa, tách rời khỏi lãnh thố Việt Nam một số địa danh quan trọng như
phía Bắc Sa Pa, ãi Nam Quan, thác Bản Giốc. Không màng đến trọng
tội bán nước, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã cùng với Trung
Quôc tô chức liên hoan ăn mừng việc hoàn thành công tác cắm cọc
biên giới mới có lợi cho Trung Quốc.
3) Phân chia lại Vịnh Bắc Việt (Golf of Tonkin)
Hiệp ước 1887 ký kết giữa đại diện Pháp quốc Patenotre và đại diện
Đại Thanh Lý Hồng Chương đã phân chia Vịnh Bắc Việt theo tỷ lệ như
sau: Việt Nam: 63%, Đại Thanh: 37%. Nhưng năm 2000, Trung Quốc đòi
phân chia lại Vịnh Bắc Việt theo tỷ lệ 50/50. Dưới tác động và ảnh
hưởng của Trung Quốc, Tổng Bí thư đảng Lê Khả Phiêu, Chủ tịch nước Trần Đức Lương và Chủ tịch Quốc Hội Nông Đức Mạnh đã thỏa hiệp ký kết hiệp ước về Vịnh Bắc Việt ngày 25-12-2000
để đáp ứng yêu sách của Trung Quốc nhưng chỉ muôn xin lại 6% mà
thôi. Theo hiệp ước mới nầy, Việt Nam măt 14,000 kỉ lô mét vuông biển trong Vịnh Bắc Việt. Trước sự ngoan ngoản của các lãnh đạo Đảng và Nhà nước cộng
sản Việt Nam, Thủ tướng Chu Dung Cơ của Trung Quốc, người thay thể Lý Bằng, thông báo sẽ chuyển giao cho Việt Nam cộng sản 2.5 tỷ Mỹ kim dưới
hình thức đầu tư. Số tiền lớn nầy được Trung Quốc xem như tiền mua một phần biến của
Việt Nam trong Vịnh Bắc Việt. Một sự thật không thể chối cải là
Cộng sản Việt Nam đã bán biển cho Trung Quốc để lẩy 2.5 tỷ Mỹ kim và đã không bảo vệ
quyền lơi của quốc gia Việt Nam bằng nhà cầm quyền thực dân Pháp. Vì vụ bán nước lần thứ ba nầy quá lớn, Quốc Hội bù nhìn của Cộng sản Việt Nam đã trì hoản đến
năm 2004 mới âm thầm phê chuẩn hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc
Việt. Trong khi gia tăng áp lực đối với đảng Cộng sản Việt Nam để
nhanh chóng ký kết hiệp ước bán biến trong Vịnh Bắc Việt, Thủ tướng
Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Bằng đã nhiều lần bộc lộ cảm tình với Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc Hội Việt Nam cộng sản, và bày tỏ ý muốn Nông Đức
Mạnh sẽ là Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam. Nông Đức Mạnh là hậu
duệ của Hồ Chí Minh được Trung Quốc hậu thuẫn mạnh mẽ đế tiếp nối
sự nghiệp bán nước của cha y.
4)Hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên của biển cả
Các cống phẩm “dâng đất biên giới, hiến biển Vịnh Băc Việt” của tập
đoàn lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chưa thỏa mãn tham vọng
thôn tính Việt Nam của Trung Quốc. Bộ Chánh trị đảng Cộng sản Việt
Nam lại nhận thêm một yêu sách mới: Chuyển nhương cho Trung Quốc 22,000 (hai mươi hai ngàn) kí lô mét
vuông biến Vỉệt Nam từ Quảng Ninh đến Quảng Ngải dưới hình thức hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên của
biến cả giữa hai nước Trung Quốc và Việt Nam. Đáp ứng yêu cầu của
Trung Quốc, một hiệp ước thứ ba đã được bí mật ký kết năm 2000 đế
giao cho Trung Quốc trọn quyền kiểm soát và khai thác biến Đông nằm
trong lãnh hải, vùng tiếp cận lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của Việt Nam ở phía Bắc Quảng Ngải (vĩ tuyến 15). Căn
cứ vào hiệp ước này, Trung Quốc đã ngang nhiên cấm đánh cá trong các vùng biển của
Việt Nam, bắn giết và bắt phạt ngư dân Việt Nam vi phạm các biện
pháp hành chánh của họ, xua đuối hai công ty British Petrolium và Exxon-Mobile không được hợp tác với Việt Nam cộng sản
thăm dò và khai thác dầu khí trong các vùng biển của Việt Nam. Nhà
cầm quyền cộng sản Việt Nam không dám phản đối Trung Quốc để bảo vệ
quyền lợi của quốc gia và ngư dân Việt Nam.
Hiệp ước hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên ký kết với Trung
Quốc năm 2000 đã được nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam xem như
một hợp đồng nên khỏi cần được Quốc Hội bù nhìn phê chuấn. Hiệp ước nầy đã
mở đường cho đế quốc cộng sản Trung Hoa chiếm hữu biển Đông và công
bố bản đồ “Lưỡi Bò”bao gồm 80% biển Đông và thu hẹp lãnh hải Viêt
Nam dưới 12 hải lý.
Đê chánh thức hóa sự chuyến nhượng vĩnh viễn cho Trung Quôc quân
đảo Hoàng Sa (nằm trên vĩ tuyến 17) và các vùng biển Việt Nam ở phía Bắc vĩ tuyến 15 (Quảng Ngải), nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã trì hoản việc đệ nạp Liên Hiệp Quốc hồ sơ thềm lục địa nối dài của
Việt Nam vĩ tuyến 15 đến năm 2009 và tuyên bố không có tranh chấp
trong vùng biến từ phía bắc vĩ tuyến 15 (vì đã chuyến nhượng quần đảo Hoàng Sa cho Trung Quốc năm
1958).
5) Hợp tác khai thác bô xít (bauxite) tại Cao nguyên Trung Phần
Dưới hình thức hợp tác khai thác bô xít để lấy Alumina, Trung Quốc đã và đang tiến hành âm mưu xâm chiếm Cao nguyên Trung
phần, một vị trí chiến lược sanh tử của Việt Nam. Sau khi khống chế
các vùng biển của Việt Nam ở phía Đông, Trung Quốc có khả
năng thành lập một khu tự tri của người Hoa và người sắc tộc thiểu số trên Cao nguyên Trung
phần ở phía Tây và tách rời nước Việt Nam ra hai miền đế làm suy
yếu sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Kế hoạch “Diễn Biến Hòa Bình” sẽ giúp cho Trung Quốc thôn tính
và Hán hóa Việt Nam với sự tiếp tay của tập đoàn lãnh đạo Cộng sản
Việt Nam hiện nay do Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh
Triết, Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang cầm đầu. Dưới sự lãnh
đạo của đảng Cộng sản, Việt Nam đang đứng trước hiểm họa Bắc thuộc
lần thứ ba (lần thứ nhứt dưới thời Nhà Hán, lần thứ hai dưới thời
Nhà Minh).
Hậu quả về an ninh quốc gia của vấn đề Trung Quốc khai thác bô xít
trên cao nguyên Trung phần nghiêm trọng không kém vấn đề ô nhiễm môi sinh và nhiễm độc nguồn nước của các con sông Là
Ngà, Đồng Nai, Sông Bé và Sài gòn cung cáp nước tiêu dùng cho dân
cư các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và thành phố Sài gòn. Hai hâu quả tai hại này sẽ quyết định sự sinh tồn của đất nước và dàn tộc Việt Nam. Mặc dâu có sự
chống đối của một số cựu tướng lãnh cộng sản như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên và một số đông trí thức trong nước do giáo sư Nguyễn Huệ Chi đứng đầu, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn nhứt quyết tiến hành dự án khai thác bauxite tại Cao nguyên Trung phần vì theo lời của tướng Tàu Lương Quang
Liệt, Chánh ủy cơ quan Tình báo Hoa Nam: “tiền đã trao, cháo phải
múc”.
Ill - Ảm mưu sát nhập nước Việt Nam vào Trung Quốc và Hán hóa dân tộc Việt Nam
Tham vọng thôn tính Việt Nam của Trung Quôc đã được bộc lộ rố rệt
trong một cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2
Việt Nam. Tài liệu mật về cuộc họp nầy đã được công bố trên
Internet và đăng tải trên nhựt báo Sài gòn Nhỏ số 226 ra ngày
03-07-2009 (25)
Tổng kết cuộc họp, viên Chánh ủy Tổng Cục Tình báo Hoa Nam Lương Quang Liệtđã nêu ra một số ý chánh, trích dẫn nguyên văn như sau:
- Hội nghị đã “bàn về chuyện hợp nhất hai quốc gia trong tương lai”
- “Hợp kết Trung Quốc Việt Nam có thể là một mốc lịch sử vĩ đại trên
đường phát triến của tổ quốc”
- “Trong tình thế hiện nay, Việt Nam không còn chọn lựa nào khác, không còn con đường nào khác hơn là trở về với Tổ quốc Trung Hoa vĩ
đại”
- “Việc Việt Nam trở về với tố quốc Trung Hoa vĩ đại là việc trước
sau sẽ phải đến. Không sớm thì muộn. Mà sớm thì hơn muộn. Trong lịch sử, Việt Nam từng là quận, huyện của Trung Quốc, là một nhánh của cây đại thụ Trung Hoa.”
- “Sự lựa chọn (giữa Trung Quốc và Hoa kỳ) chỉ còn có một . Và ở đây, các đồng chí Việt Nam tỏ ra có lựa chọn đúng. Ngày nay, Trung Quốc vĩ đại phải dành lại vị trí đã có của mình. Có Việt Nam nhập vào, Trung Quốc đã vĩ đại lại càng thêm vĩ đại. ”
- “Trong tướng lĩnh, phần nhiều là người của ta, do ta đào tạo, cất nhắc. Công nay là nguyên chủ tịch Lê (tức là Lê Đức Ảnh), người
rất biết nhìn xa trông rộng".
- “Tăng cường viết và nói hằng ngày, hằng giờ; biện luận cho dân thấy cái lợi của việc sát nhập”.
- “Một khi Việt Nam đã nhập vào Trung Quốc thì vùng Tây nguyên của
Việt Nam là của chung nước ta”.
- “Phàỉ trấn an các cản bộ các cáp, từ trung ương đến địa phương để họ thấy rằng sau khi hợp nhất, mọi vị tri, quyền lợi, bổng lộc của họ không bị suy xuyển. Các đơn vị hành chánh sẽ được giữ nguyên trong một thời gian dàì trước khi áp dụng mô hình hành chảnh chung cùa toàn quốc”
- “Trong thời đạỉ hiện nay...., sự sát nhập trở lại cùa Việt nam và
toàn bản đảo
Đông Dương tiếp theo là điều tất yếu”
- “Việc cuối cùng là mô hình quản trị Việt nam trong tố quốc thống
nhứt. Tỉnh hay khu tự trị”.
Trong khi tống kết hay hiểu thị, viên chánh ủy Tàu Lương Quang Liệt còn tiết lộ hai bí mật liên quan đến Hồ Chí Minh và Nông Đức
Mạnh, nguyên văn như sau:
1) i bộ phận trong cùng một cơ thể”. “ Trung Quốc và Việt Nam là một Đỏ là chân lý dời dời. Đỏ cũng là lời của Hồ đồng chỉ (tức là Hồ Chí Min tì) trong lễ
tuyên thệ gia nhập đảng Cộng sản Trung Quốc. IIỒ dồng chỉ tôn kính còn dạy: Trung Quốc và Việt Nam như mỏi với
răng. Môi hở thì răng lạnh. Có nghĩa là hai nước lù ha
2) “Nông đồng chí (tức là đồng chỉ Nông Đức Mạnh) tùng tự hào nhận
mình là người Choang (Zhuang) trong cuộc gặp gở các đại biếu trong Quốc vụ viện. Mà dân tộc Choang là gì? Là một bộ phận của đại gia đình các dân
tộc Trung Quốc
Nông Đức Mạnh là con tư sinh của Hồ Chí Minh đã có với người nữ cán
bộ hộ lý tên Nông thị Ngát bí danh Nông thị Trưng trong thời gian
ẩn trú trong hang Pác Bó ở Cao Băng năm 1940.
Nói tóm lại, sau cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và
Tổng Cục 2 Việt Nam, Trung Quốc đang chuẩn bị thực hiện Thỏa ước Thành Đô 1990 vào năm
2020với sự tiếp tay của các lãnh tụ đảng Cộng sản Việt Nam. Tham vọng
bành trướng của Trung Quốc sẽ nô lệ hóa dân tộc Lạc Việt giống như
các dân tộc thiểu số Tây Tạng, Mông cổ, Mãn Châu và Hồi Cương. Đứng
trước nguy cơ mất nước và mất dân tộc hiện nay, chỉ có Nhân dân Việt Nam mới có đủ sức mạnh để cứu nưởc và dân tộc ra khỏi đại họa thông trị và đồng hóa của đế quốc cộng sản
Hán tộc.
California, ngày 19 tháng 7 năm 2009
Tài liệu tham khảo:
(23) Đinh Quang Anh Thái, Mất Dân Tộc Còn Tệ Hom Mất Nước, Nhựt báo
Người Việt số 8616 ngày 10-7-2009, California, Hoa Kỳ
(24) Ghi Chép Thực về Việc Đoàn cố vấn Quân Sự Trung Quốc Viện Trợ Việt Nam Chống Pháp, NXB Lịch sử
đảng Cộng sản Trung Quốc, Bắc kinh, 2002
(25) Trích tài liệu mật về cuộc họp giữa Tổng Cục Tình Báo Hoa Nam và
Tổng Cục 2 Việt Nam trực thuộc bộ Quốc Phòng.
***
trachnhiemonline trân trọng giới thiệu tác phẩm "Thay Ngôi Đổi Chủ", "Tuyển Tập Các Biên Khảo Lịch Sử Chính Trị Việt Nam Trong Thời Kỳ
Cận Đại & Hiện Đại" của Cụ Thẩm phán Việt Nam Cộng Hòa Phạm Đình Hưng
__._,_.___
Posted by: thanh nguyen <tbtrachnhiem@gmail.com>
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen