Phạm Nguyên Trường dịch
Zheng Wang, The Diplomat
Sau thất bại lớn về ngoại giao của Trung Quốc, nhìn lại vì sao nước
này lại bị như thế.
Ảnh: news.abs-cbn.com
Ảnh: news.abs-cbn.com
Phán quyết tòa trọng tài trong vụ Philippines kiện Trung Quốc chắc
chắn là thất bại lớn về ngoại giao của Trung Quốc. Dù dư luận có
đánh giá như thế nào về chất lượng và tính công bằng của phán quyết
này, đặc biệt, khi tuyệt đại đa số ủng hộ đòi hỏi của Philippines,
phán quyết này không chỉ làm tổn hại hình ảnh và sức mạnh mềm của
Trung Quốc mà còn gây thiệt hại đáng kể cho những đòi hỏi của Trung
Quốc về lãnh thổ và quyền đi lại ở biển Đông, cũng như những hậu
quả có ảnh hưởng sâu rộng khác. Nhìn lại quá trình kể từ tháng 1
năm 2013, khi chính phủ Philippines quyết định đưa vấn đề lên Tòa
Trọng tài Thường trực (PCA), có nhiều bài học mà Trung Quốc có thể
học từ vụ kiện này, đặc biệt là quá trình ra quyết định, nghiên cứu
chính sách, thái độ và nhận thức, và truyền thông.
Ra quyết định chính sách ngoại giao
Vụ xử ở toà PCA cho thấy một vấn đề lớn trong quá trình ra quyết
định về chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Nếu tham gia vào vụ
xử, Trung Quốc có thể đã chọn một trọng tài viên thay mặt cho Trung
Quốc và có thể gây ảnh hưởng lên quyết định của các trọng tài viên
khác, điều đó có thể tác động trực tiếp đến kết quả. Thậm chí Trung
Quốc có thể làm cho tòa trở thành không đủ thẩm quyền ra quyết định
về vấn đề này, hoặc ít nhất không đủ thẩm quyền về một vài vấn đề.
Vì không tham gia, Trung Quốc tự nguyện đánh mất cơ hội tham gia
trực tiếp vào các cuộc tranh luận và trình bày ý kiến của mình, đưa
ra bằng chứng và luận cứ về vụ việc này. Vì vậy, không tham gia rõ
ràng là một sai lầm rất lớn của Trung Quốc.
Việc Trung Quốc quyết định không tham gia đã cho Shunji Yanai, Chủ
tịch Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) và là công dân của Nhật
Bản, thẩm quyền bổ nhiệm trọng tài viên. Kết quả là, bốn trong số
năm trọng tài viên trong vụ kiện này đều do ông này bổ nhiệm. Trước
khi làm chủ tịch ITLOS, từ năm 1997 đến năm 1999, Yanai là thứ
trường ngoại giao Nhật Bản và là đại sứ ở Hoa Kỳ từ năm 1999 đến
năm 2001. Do có những tranh chấp trong lĩnh vực hàng hải và những
vấn đề lịch sử giữa Trung Quốc và Nhật Bản, một số người Trung Quốc
tin rằng Yanai, nói chung, đã chọn những trọng tài viên có thái độ
chống lại Trung Quốc. Nhưng nói một cách chính xác hơn, chỉ bởi vì
Trung Quốc từ chối tham gia mà Yanai có quyền chỉ định các trọng
tài viên theo ý mình.
Trung Quốc cần phải suy nghĩ vì sao họ lại quyết định như thế. Thứ
nhất, họ đã không xem xét một cách cẩn thận những hậu quả có thể có
của việc từ chối tham gia. Một vấn đề cực kì quan trọng khác là
liệu có những kênh đủ hiệu quả để đưa ra những ý kiến khác, có thể
được thảo luận và đánh giá trong quá trình hoạch định chính sách
hay không. Rõ ràng là, trong số các cố vấn của chính phủ Trung Quốc
đã không có những chuyên gia luật quốc tế thượng thặng.
Nghiên cứu chính sách
Vụ kiện cũng cho thấy một trong những điểm yếu lớn trong chính sách
đối ngoại của Trung Quốc: nghiên cứu chính sách. Trung Quốc đã
không nghiên cứu một cách kỹ lưỡng những vấn đề về Biển Đông, kể cả
những đòi hỏi của chính họ và những vấn đề về quyền lịch sử.
Đây là một trong những lý do quan trọng giải thích vì sao Trung
Quốc quyết định không tham gia: nước này chưa sẵn sàng. Người ta
chưa thỏa thuận được một lộ trình rõ ràng hoặc được hỗ trợ một cách
toàn diện để các quan chức chính phủ làm theo. Thái độ mập mờ của
Trung Quốc về Biển Đông, ở mức độ nào đó, là do chưa nghiên cứu kỹ.
Ví dụ, yêu sách của Trung Quốc chủ yếu dựa vào lịch sử, nhưng cho
đến nay tôi vẫn chưa tìm thấy một cuốn sách nào được xuất bản ở
Trung Quốc đưa ra được phân tích toàn diện và khách quan về các sự
kiện và lịch sử Biển Đông, cũng như những quá trình dẫn đến việc
tung ra những tấm bản đồ có đường đứt đoạn và ý nghĩa thực tế của
những tấm bản đồ đó. Trung Quốc thực sự có nhiều bằng chứng lịch sử
củng cố yêu sách của mình, nhưng trong nhiều năm qua, nhiều bằng
chứng chỉ được sử dụng cho các diễn ngôn ở trong nước mà thôi. Đưa
ra như những bằng chứng pháp lý lại là vấn đề hoàn toàn khác nhau.
Trung Quốc cũng không có đủ các chuyên gia luật quốc tế xứng tầm,
đấy là những người rất cần cho các vụ kiện lớn.
Để lấp đầy khoảng cách, Trung Quốc phải hỗ trợ thêm nữa cho các
think tank và viện nghiên cứu chuyên nghiên cứu về Biển Đông. Quan
trọng hơn, nghiên cứu chính sách phải khuyến khích các cuộc tranh
luận giữa các ý kiến khác nhau và phải trao đổi thông tin với cộng
đồng nghiên cứu quốc tế.
Thái độ tiền hậu bất nhất
Mặc dù Trung Quốc không chấp nhận phán quyết của PCA năm 2006
(Nguyên bản, có thể là lỗi typo của The Diplomat – ND), là siêu
cường, chí ít, việc tham gia tố tụng thể hiện sự tôn trọng cần
thiết đối với luật pháp quốc tế và các thiết chế pháp lý quốc tế.
Về cơ bản, đây là vấn đề về thái độ và nhận thức. Chính phủ Trung
Quốc vẫn coi luật pháp quốc tế như một thứ mà họ có thể chọn theo ý
mình. Ngoài ra, chính phủ nước này chưa quen với các hệ thống và
thiết chế của luật pháp quốc tế, đặc biệt là việc sử dụng trọng tài
làm biện pháp giải quyết tranh chấp. Một số người có thái độ kẻ cả
và thậm chí coi việc siêu cường to lớn và hùng mạnh tham gia vào
một vụ kiện do một nước nhỏ hơn khởi xướng và được tổ chức bởi một
tòa án tạm thời là mất mặt.
Như đã nói trong một bài viết khác của tôi, khi tham gia đàm phán
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) từ năm 1973 đến năm
1982, Trung Quốc đã quyết định sát cánh với các nước thuộc Thế giới
Thứ ba và ủng hộ đòi hỏi vùng độc quyền kinh tế (EEZ) rộng 200 hải
lý. Các nhà ngoại giao Trung Quốc lúc đó đã hoàn toàn quên Biển
Đông và đường chín đoạn. Họ đã đặt ý thức hệ lên trên lợi ích quốc
gia và không nhận ra rằng vùng EEZ rộng 200 hải lý sẽ tạo ra những
mâu thuẫn không thể tưởng tượng nổi đối với những đòi hỏi của Trung
Quốc ở Biển Đông, vì các vùng EEZ của các lân bang sẽ chồng lấn lên
đường chín đoạn. Từ việc tham gia của Trung Quốc trong quá trình
đàm phán UNCLOS trong những năm 1970 đến quyết định không tham gia
trong vụ kiện năm 2013, hơn 40 năm đã trôi qua, và trong thời gian
này, kinh tế Trung Quốc đã tăng từ một trong những nước nghèo nhất
trên thế giới trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới,
nhưng thái độ của và nhận thức luật pháp quốc tế của Trung Quốc đã
không tăng trưởng và phát triển cùng tốc độ như thế.
Giao tiếp
Về các vấn đề Biển Đông, Trung Quốc đã bị cô lập đáng kể. Người dân
bên ngoài Trung Quốc thực ra là không được nghe luận cứ và ý kiến
của nước này. Nhưng, sự cô lập này một phần là do chính Trung Quốc
tạo ra, vì Bắc Kinh chưa bao giờ tìm được biện pháp hiệu quả để
liên lạc với phần còn lại của thế giới để trình bày những đòi hỏi
của mình và luận cứ chống lưng cho những đòi hỏi đó. Trước khi tòa
đưa ra phán quyết, Trung Quốc đã tung ra chiến dịch truyền thông và
tổ chức cho nhà ngoại giao viết bài đăng trên các phương tiện
truyền thông quốc tế, nhưng phần lớn những nỗ lực này không hiệu
quả, đơn giản vì họ chỉ lặp đi lặp lại quan điểm chính thức của
Trung Quốc mà không cung cấp được bằng chứng thuyết phục và luận cứ
logic nhằm củng cố các yêu sách của Trung Quốc.
Đáng lo là siêu cường đang phát triển không thể giao tiếp một cách
hiệu quả với phần còn lại của thế giới. Có khoảng cách nhận thức
rất lớn về các tranh chấp ở Biển Đông. Phần lớn những tranh chấp ở
Biển Đông hiện nay xuất phát từ nhận thức và nhận thức sai lầm do
các phương tiện truyền thông đại chúng, do giáo dục và diễn ngôn xã
hội cả bên trong lẫn bên ngoài Trung Quốc tạo ra. Rõ ràng là, cần
phải liên lạc và đối thoại ngay lập tức, đặc biệt là giữa Hoa Kỳ và
Trung Quốc.
Đáng tiếc là, các phán quyết của tòa sẽ không mang lại bất kỳ giải
pháp nào cho việc giải quyết những căng thẳng ở Biển Đông; nhiều
khả năng là nó sẽ chỉ làm cho tình hình thêm bất ổn và nguy hiểm
hơn. Phán quyết này cũng có khả năng kích thích tinh thần dân tộc
của Trung Quốc và ký ức tập thể về những chấn thương lịch sử do các
cường quốc bên ngoài gây ra cho họ. Hệ quả có thể là không gian cho
nền ngoại giao duy lý có thể còn thu hẹp hơn nữa. Tuy nhiên, Bắc
Kinh cần tránh phản ứng thái quá, vì nó sẽ chỉ làm cho lợi ích quốc
gia của Trung Quốc phải trả giá cao hơn mà thôi.
________
Zheng Wang là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Hòa bình và Xung đột ở
Trường Ngoại giao và Quan hệ quốc tế ở Seton Hall University ở New
Jersey. Ông cũng là đại diện của quỹ Carnegie ở New America và đại
diễn quỹ Global ở Kissinger Institute on China and the United
States of the Woodrow Wilson International Center for Scholars.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen