THANH THƯƠNG HOÀNG
Cali Today News – Một buổi sáng chủ nhật, tôi tình cờ theo chân một
phái đoàn thuộc HỘI ÁI HỮU CỰU CHIẾN BINH HOA KỲ THAM CHIẾN TẠI
VIỆT NAM, tên Mỹ là “Viet Nam Veterans of America” (viết tắt AVVA
Chaper201) Chi hội San Jose Bang California (viết tắt VVA) đi thăm
ủy lạo và đãi bữa ăn trưa các thương bệnh binh Mỹ từ các chiến
trường trên thế giới chuyển về Quân Y Viện P. A. Thú thực hơn 10
năm sống ở Thành phố San Jose tôi chưa hề biết tới Quân Y Viện này,
tọa lạc tại Thành phố P. A. cách thành phố tôi ở khoảng 2, 3 chục
dặm. Trước khi vào bài tôi nghĩ nên có vài dòng viết về tổ chức
AVVA Chaper 201 này. Đây là một tổ chức thiện nguyện to lớn (và lâu
năm) có chi nhánh trên khắp nước Mỹ do một viên tướng Mỹ hồi hưu
đứng đầu. Nhiệm vụ của họ (tự đề ra) là thăm viếng ủy lạo giúp đỡ
các thương bệnh binh (và gia đình) đang nằm điều trị ngắn hay dài
hạn, tùy theo thương tích bệnh hoạn tại các Quân Y Viện. Mỗi năm
các chi hội tự động tổ chức thăm viếng vài ba lần theo khả năng tài
chánh quyên góp được. Chi Hội ở San Jose do một số người Việt đứng
ra đảm trách (đa số là các cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa). Hội
không có “phân” của Nhà Nước Mỹ, các Chi hội phải tự túc mọi phương
tiện. Nếu được các nhà hảo tâm tài trợ nhiều thì họ tổ chức thăm
viếng nhiều lần. Họ không mở “mặt trận” quyên góp rầm rộ hay tổ
chức tiệc tùng gây quỹ. Ai biết tới và có lòng thì tự động gửi tặng
và dù số tiền cũng như phẩm vật ít ỏi, mỗi năm họ vẫn phải tổ chức
thăm viếng ít ra là hai lần, tiền do các hội viên, thiện nguyện
viên, thân hữu đóng góp từ dăm bẩy đồng tới bạc trăm. Tùy theo số
tiền thu được, họ làm các món ăn đơn giản như bánh mì kẹp thịt, gà,
heo nướng, thịt bò chiên, súp, rau, trái cây, ít ra cũng phải dăm
bẩy món cho đủ khoảng trên dưới 200 phần ăn đem tới Quân Y Viện để
thết đãi. Tôi được biết trước ngày “ra quân” các bà, các cô và cả
các cụ ông cụ bà (trên 60 tới 80 tuổi) trong Chi Hội đã thức gần
trắng đêm để lo cho xong phần thực phẩm như cắt ướp thịt, rau,
bánh, trái cây, nấu súp…
&
Phái đoàn lên đường khoảng 10 xe (toàn xe cá nhân tự túc) với gần
30 người. Quân Y Viện P. A. nằm trên một khu đất riêng biệt, rộng
lớn và đồ sộ. Không có ai trong Quân Y Viện ra đón phái đoàn. Chúng
tôi tự động vào nơi tập trung tại một căn phòng và một sân nhỏ.
Trước chúng tôi đã có một ban nhạc học sinh từ Thành phố Stockton
tới. Ban nhạc gồm 5,6 em học sinh đủ cả Việt Mỹ (đen, trắng, vàng)
chuyên xử dụng đàn Guitar, kèn, nhất là Violin. Nghe nói các em đã
tự nguyện tham gia chương trình này từ mấy năm nay. Cũng có một
đoàn vũ thiếu nhi hướng đạo Bách Việt đến giúp vui, thêm ban nhạc
Minh Trung, ông bà nhạc sĩ Trần Điềm và mười mấy “ca nhạc sĩ nghiệp
dư” ở nhiều nơi năm nào cũng tự động đến ca hát. Ban tổ chức khi
tới nơi bắt tay ngay vào “công tác ẩm thực”- tức nhóm bếp than nấu
nướng, khói bốc mù mịt tỏa mùi thơm lừng. Chỉ trong chốc lát thương
bệnh binh từ các phòng lần lượt kéo tới, rất nhiều người (đàn ông
đàn bà đủ cỡ tuổi, đen trắng đủ cả, phần đông từ trung niên trở
lên) ngồi trên xe lăn với thân thể không toàn vẹn như cụt chân tay,
mù mắt. Các ông thì râu ria xồm xoàm tóc tai bờm sờm, các bà thì
hoặc béo tròn hoặc gầy như que củi khô, đầu tóc rối bù biếng chải,
ăn mặc lôi thôi lếch thếch. Họ là các thương bệnh binh từ các chiến
trường Trung Đông trở về . Họ ngồi chật trong phòng và ngoài sân
khoảng hơn 200 người. Đây là những người còn lê lết cất bước được
hoặc “ngự” trên các xe lăn. Họ vừa ăn uống vừa nghe ban nhạc
“nghiệp dư”trình diễn, ca hát. Còn những thương bệnh binh bị thương
nặng quá không tới được, ban tổ chức cử từng nhóm mang từng hộp
thức ăn tới tận giường bệnh cho họ. Có các nhạc sĩ học sinh theo
sau kéo Violin những bản nhạc vui để cho họ vừq ăn vừa nghe. Tôi đi
theo một toán tới những phòng bệnh nhân nặng nhất. Phòng thứ nhất
có một thương bệnh binh mới từ Afganistan chuyển về mấy ngày. Hai
chân anh còn bó băng kín. Anh bị mìn phá nát hai bàn chân và bụng
vừa giải phẫu lấy ra mấy mảnh mìn. Anh thấy chúng tôi vào thản
nhiên nhìn. Hỏi anh chỉ lắc hay gật. Khi đưa thức ăn anh ra hiệu để
xuống cái bàn nhỏ, anh chưa muốn anh. Hỏi có thích nghe nhạc không,
anh gật. Các em học sinh kéo violin liền mấy bản nhạc vui tươi, lúc
ấy tôi thấy mắt anh chớp chớp có vẻ xúc đông.
Chúng tôi sang phòng khác. Đây là một thương bệnh binh người da đen
có thể nói còn rất trẻ, khoảng ngoài 20 tuổi. Thấy chúng tôi vào
anh nhỏm ngồi dậy vui vẻ cất tiếng “hê lô” liền. Sau khi nhận phần
thức ăn, anh ăn ngay một cách ngon lành. Chúng tôi hỏi câu gì anh
mau mắn trả lời câu đó. Anh cho biết từ mặt trận Iraq về trên 2 năm
rồi. Đã xuất viện nhập viện năm lần bẩy lượt vì chứng bệnh đau đầu
(thỉnh thoảng lên cơn đau dữ dội) vì một viên đạn còn nằm trong đó
các bác sĩ chưa dám mổ sợ lâm nguy tới tính mạng. Ngoài ra còn cái
ống chân phải bị gẫy nên anh lười đi ra ngoài. Anh chưa có gia
đình, chưa có người yêu. Bố chết,mẹ đi lấy chồng khác. Bà phải lo
cho các con của bà còn nhỏ “không có thì giờ tới thăm tôi. Hơn nữa
bà nghèo lại ở Bang xa”. Hỏi anh có oán ghét chiến tranh không, anh
gật đầu: “Có ai ưa chiến tranh. Chúng tôi sang đó vì nhiệm vụ. Chỉ
vì không muốn giết một gã dân quân khi thấy gã giơ hai tay lên, tôi
vừa hạ súng xuống thì bất ngờ, gã nhanh như chớp nã liền mấy phát
đạn vào tôi. May cho tôi chưa chết, còn gã dân quân thì bị các bạn
tôi sơi tái liền.” “Anh có căm giận kẻ hại mình không?” Anh cười
hiền: “Chiến tranh mà! Mình không giết họ thì họ cũng giết mình!”
“Anh có nghĩ tới tương lai?” Anh lắc đầu không trả lời câu hỏi và
yêu cầu các nhạc sĩ chơi cho anh nghe bản “What will be will be”.
Nắm tay giã từ anh, tôi thấy anh có vẻ như cố tạo nụ cười vui. Tôi
nghĩ chắc anh sẽ buồn lắm khi nằm lại một mình trong căn phòng
nhỏ.Sang một phòng khác bất ngờ gặp một thương bệnh binh người
Việt. Anh còn rất trẻ vui mừng chào đón chúng tôi. Anh mới từ mặt
trận Afganistan chuyển về hơn tháng nay. Anh bị cụt một chân, giờ
đang chờ làm chân giả xong thì xuất viện. Bố mẹ và các em anh
thường đến thăm và rất hãnh diện về anh đã góp phần xương máu cho
đất nước Mỹ, tổ quốc thứ hai của anh. Nghe anh cười nói một cách
hồn nhiên, chúng tôi vui lây và cũng như cha mẹ anh, rất hãnh diện
về anh. Đi tiếp một hai phòng nữa thì tới một phòng với một thương bệnh
binh đặc biệt. Đặc biệt hơn nữa là anh đã tham dự cuộc chiến tại Việt Nam và nằm
từ đó tới giờ (gần 40 năm) tại đây. Anh bị mảnh đạn pháo của địch
cắt ngang sống lưng một đoạn dài. Ngoài ra hai chân cũng bị đứt
luôn. Chân được lắp chân giả, cố gắng đi lại được những đoạn ngắn,
nhưng cái lưng thì bất trị, mặc dầu khoa học đã dốc toàn lực chữa.
Mỗi lần chuyển động hay trở trời thay đổi thời khí đau lắm nên anh
cứ nằm trên giường bệnh quanh năm ngày tháng không tên, không biết
cả thời gian trôi qua, ngày cũng như đêm. Tuy thân thể tệ hại vậy
nhưng trái lại cái đầu anh rất tỉnh táo, sáng suốt, có lẽ vì vậy
anh càng đau khổ thêm. Anh cũng chẳng quan tâm gì tới mọi người xung quanh. Chúng tôi vào
anh vẫn nằm yên trên giường. Anh gầy và xanh xao, chiếc mền trắng
phủ tới cổ, chỉ để hở “rừng” tóc dài rối bời phủ đầy trên chiếc gối
và bộ râu ria bù xù rậm rì. Anh bảo: “Bệnh viện đòi cắt nhưng tôi
không chịu. Tôi đã “nuôi” nó từ lúc bị thương ở Việt Nam”. Ngưng
chút anh nói tiếp với dọng thều thào có phần yếu ớt: “Để nuôi kỷ
niệm mà!”. Rồi anh thở dài: “Khi ra đi là một chàng trai mới ngoài
20 tuổi tóc xanh mắt sáng thân mình khỏe mạnh, giờ đây tôi đã trở
thành ông già ngoài 60 (anh thở dài) thân thể tong teo yếu đuối
bệnh tật, râu tóc trắng xóa và không biết tuổi già còn kéo dài bao
lâu nữa trên chiếc giường này: “nó” đã gắn bó với tôi có lẽ suốt
đời. Hiện tôi đang sống trong cõi chết”. Tôi nhắc lại: “Hiện anh
đang”sống”trong cõi chết?” Anh trả lời ngay “Hiện tôi sống trong
cõi chết. Thế giới của tôi là cái giường này và cái Tivi, cái
Computer. Nếu không có chúng chắc tôi chết thực sự lâu rồi.” Vì
suốt ngày đêm “sống” với cái Tivi và Computer nên anh biết tất cả
những sự việc xẩy ra trên nước Mỹ và thế giới. Tôi hỏi anh về gia
cảnh. Anh lắc đầu chua chát: “Bố tôi đã mất trong một tai nạn lao
động khi tôi còn tham chiến ở Việt Nam. Còn mẹ tôi ngất xỉu khi hay
tin tôi bị trọng thương, ít ngày sau bà chêt vì bệnh tim. Tôi có
một cô em gái nhưng giờ chẳng biết lưu lạc nơi đâu, sống hay chết.
Tôi cũng không có vợ con, nhà cửa, là một kẻ vô gia cư chính hiệu
nên đã lấy bệnh viện làm nhà của mình. Anh ngưng chút nuốt nước bọt
như cố nén dĩ vãng đang dâng. Anh nói: “Trước lúc nhập ngũ tôi cũng
có cô bạn gái hẹn hò thề thốt lăng nhăng nhưng nếu đặt vào trường
hợp anh, anh có chịu lấy một gã tàn phế như thế này không?” Ban
nhạc muốn giúp vui nhưng anh từ chối. Khi cả nhóm từ giã, tôi muốn
ở lại với anh để hỏi vài điều. Anh ô kê. Tôi ngồi xuống chiếc ghế
nhỏ cạnh anh. Anh giục: “Có điều gì muốn hỏi thì anh cứ nói đi,
đừng ngại?” Tôi ngập ngừng mãi mới cất tiếng: “Anh bị chết cả cuộc đời như thế này do cuộc chiến tranh của chúng
tôi gây ra, anh có oán trách thù hận chúng tôi?” Anh trả lời liền:
“Không!“ “Tại sao?” “Tôi chỉ ân hận sao không chết ngay lúc đó để
mọi người đỡ khốn khổ vì tôi và món nợ Tổ quốc trả xong. Tôi giờ
đây đúng là người chiến sĩ vô danh thực sự, sống âm thầm trong tăm
tối quên lãng. Một người thừa của xã hội. Nhưng dù sao tôi cũng còn sung sướng hơn các bạn cựu chiến hữu của
các anh bị kẹt ở quê nhà anh nhiều, vì tôi còn chính phủ, còn quân
đội chăm lo chữa trị. Còn các cựu chiến hữu của anh? Tôi được biết
họ với tấm thân tàn tật không được chữa trị nuôi dưỡng lại còn bị
kẻ thắng trận kỳ thị khinh khi đối xử tàn tệ. Họ phải lê tấm thân
tàn hàng ngày đi ăn xin, tối về không nhà cửa phải nằm ngủ nơi
nghĩa địa hoang. Ốm đau không thuốc chữa, không nơi cưu mang đùm
bọc. Khi chết thân xác thối rữa làm mồi cho loài thú hoang.” Tôi bất ngờ sửng sốt trước tấm lòng của người cựu chiến binh Hoa
Kỳ. Anh đã quên số phận mình để đau cho thân phận những người đứng
trong cùng chiến tuyến không hề quen biết. Ngày 30 tháng Tư năm 1975, ở trung tâm Thành phố Saigon đứng trên
lan can lầu nhà người bạn nhìn xuống đường thấy những anh chiến sĩ
quốc gia cỡi trần bỏ hết bộ quân phục cúi đầu lầm lũi đi bên lề
đường, tôi không khỏi cầm được nước mắt. Anh bạn chủ nhà đứng bên
thở dài và bỗng đấm vào ngực thình thịch nói như hét: “Nhục quá!
Khốn nạn quá! Đau lòng quá! Thế là hết! Hết thực rồi! Ôi những
người chiến binh oai hùng của tôi giờ đây bỗng dưng trở thành những
kẻ hàng binh lơ láo. Rồi mai này cuộc đời họ sẽ ra sao, hở trời!”
Tôi còn muốn hỏi anh bạn thương bệnh binh nhiều nữa, bất ngờ anh
“phỏng vấn” lại tôi. Tôi thấy đôi mắt anh mở to hơn và tiếng nói
mạnh hơn: “Chúng tôi sang tham chiến tại Việt Nam có phải để xâm
lăng, cướp đất đai của cải của các anh không?” “Tất nhiên là không
rồi.” “Vậy thì chúng tôi mang vũ khí, lương thực, tiền bạc và cả
sinh mạng nữa sang để giúp các anh ngăn chặn làn sóng đỏ, bảo vệ tự
do dân chủ cho các anh. Có phải vậy không?” “Đúng vậy!” “Chúng tôi
đã mất bao tỷ bạc và trên năm mươi ngàn người chết, mất tích. Hỏi
chúng tôi có được gì không ngoài những cuộc xuống đường đòi đuổi
người Mỹ, ném đá phá xe người Mỹ, đốt xé cờ Mỹ, phá phách thư viện
đốt sách báo của Mỹ, tức đốt nền văn hóa Mỹ. Còn bọn mệnh danh trí
thức của các anh thì kết tội chúng tôi phá hoại đạo đức thuần phong
mỹ tục dân tộc anh. Khi chúng tôi rút đi thì các anh lại kết tội
chúng tôi bất lương, bất nhân, tháo chạy bỏ mặc đồng minh để cả
nước rơi vào tay bọn cộng sản. Các anh kết tội, nguyền rủa chúng
tôi chẳng kém gì kẻ thù. Khi các anh chạy cộng sản sang đây, đất
nước chúng tôi dang rộng cánh tay nhân từ ân cần đón tiếp giúp đỡ
các anh. Con cháu các anh có cơ hội học hành thành tài. Còn các anh
có cơ hội làm việc trở nên giầu có rồi lại “vô tư” mang tiền bạc về
nước làm giầu kẻ thù cũ của các anh với lý do đẹp đẽ: xây dựng lại
quê hương đất nước! Đã vậy tại sao các anh còn to tiếng nguyền rủa oán trách chúng tôi? Xuống đường đả đảo
phản đối đòi hỏi quá nhiều điều vô lý ở chúng tôi? Đất nước này đâu
phải con bò sữa, đâu phải bãi rác, đâu phải khu rừng hoang để các
anh tự do múa gậy! Rồi không còn nhớ tới thân phận mình sống nơi
đất nước người (và đã tuyên thệ làm công dân mới) cứ nhân danh này
nọ nhiều thứ (ngoài hiến pháp) làm những điều tệ hại như xâu xé,
chia rẻ phe cánh bôi mặt đá nhau gây xáo trộn cả xã hội. Tôi chưa
thấy một cộng đồng thiểu số nào ở đây làm như vậy. Đôi lúc tôi nghĩ
thấy hối hận: có lẽ mình đã lầm, cứ tưởng dân tộc các anh là dân
tộc anh hùng bất khuất. Muôn người như một liều mình lao vào chỗ
chết tìm đường sống rồi chung lưng đấu cật mài gươm chờ ngày mai
phục quốc như một số dân tộc khác.” Thật bất ngờ, trước “tai bay vạ gió” bất đắc dĩ bị đại diện cho
đồng bào mình nghe… chửi, tôi đành im lặng chịu trận. Tôi không ngờ
người cựu chiến binh tàn phế này vẫn còn nuôi nỗi đau cuộc chiến
của chúng tôi cho tới bây giờ qua hơn nửa thế kỷ và đau cả nỗi đau
của chúng tôi hôm nay. Nghỉ chút lấy sức và thở, anh nói tiếp:
“Chúng tôi sang Việt Nam chiến đấu có phải vì chúng tôi hay vì các
anh? Chưa kể tới ngót 50.000 người chết, còn kẻ sống sót như tôi và
biết bao bạn tôi trở nên tàn phế trăm phần trăm như thế này, cuộc
đời kể như vất đi, như chết rồi, tôi hỏi anh vì ai, chẳng lẽ vì
chúng tôi?. Tổ tiên các anh có câu thành ngữ truyền lại: “Tiên
trách kỷ hậu trách nhân”, hãy trách mình trước khi trách người.
Những cuộc xuống đường đả đảo đòi đuổi chúng tôi trước đây, phải
đau xót và vô tư nhìn nhận rằng khi đó các anh đã góp một phần vào
việc mất nước của mình. Bọn côn đồ phản chiến bên Mỹ này đã vin vào
đó mà có cớ la lối chống đối đòi hỏi quân đội Mỹ rút bỏ. Rồi khi về
nước chúng tôi còn bị đồng bào khinh khi miệt thị. Anh đã “nhìn”
thấy nỗi đau của chúng tôi chưa? Thế xác đã đau nhưng tinh thần còn
đau gấp bội. Ai bù đắp cho chúng tôi những thiệt hại mất mát to lớn
này? Hỏi những người Việt Nam đang sống ngay trên đất Mỹ còn có mấy
ai tưởng nhớ tới “những thằng Yankee” tàn tật như chúng tôi đang
nằm đợi chết hay đang chết trong cõi sống ở cái só bệnh viện này?
Nếu ngày trước các anh tổ chức những phái đoàn đi ủy lạo tỏ lòng
biết ơn chúng tôi như bây giờ, có lẽ cục diện đất nước các anh có
thể đã đổi khác. Thôi anh đi đi và đừng buồn giận tôi nhé. Anh đã
làm nỗi đau của tôi sống lại đấy. Hơn 50 năm nay tôi cố quên và tự
an ủi và cả hãnh diện nữa là mình đã đổ xương máu để giữ gìn tự do
dân chủ cho nước bạn nhỏ yếu nhưng…” Bất thần, bàng hoàng đến sửng
sốt khi tôi thấy anh cựu chiến binh Hoa Kỳ già ôm mặt òa khóc nức
nở như đứa trẻ bị đánh đòn.
Tôi không còn đủ can đảm đứng lại bên anh bạn thương bệnh binh Mỹ mang nặng vết thương chiến tranh, mang nặng tấm thân tàn phế trên nửa thế kỷ từ đất nước tôi về nữa. Mắt tôi cay sè. Tôi khẽ nắm tay anh và cúi đầu bước vội ra khỏi phòng. Tôi thầm cám ơn anh bạn chiến sĩ Hoa Kỳ và những tấm lòng Việt Nam đã đưa tôi tới đây hôm nay. Lịch sử đã sang trang lâu rồi sao vết thương vẫn còn nhức nhối, vẫn còn nước mắt…? Anh bạn cựu chiến binh thương phế binh Hoa Kỳ ơi, tôi, chúng tôi, không quên và mãi mãi không bao giờ quên các anh. Xương máu các anh đã thấm đẫm vào lòng đất nước tôi.
THANH THƯƠNG HOÀNG
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen