Freitag, 1. Juli 2016

Mekong Delta SOS

Dear all,
Bài viết rất đáng lưu tâm của nhà báo Lê Quỳnh, người đã có bài PV anh Ngô Thế Vinh. Và cái quan trọng là những nhà báo này, đã biết viết báo bằng cả những sự phân tích và nhìn nhận rất cá tính khoa học, thay vì cứ đi theo định hướng lề đảng, quan chức và trí thức CS rằng 40 năm thành công ĐBSCL như đã từng ra rả ca ngợi. Những ý kiến ngược dòng của các chuyên gia như GS Võ Tòng Xuân đang làm thay đổi nhận thức của từng cá nhân người cầm bút để dần dần những lý lẽ và bản chất khoa học sẽ đến dần với người dân. Một khi dân trí đc nâng cao, thì những sự dối trá bấy lâu này sẽ dần ko có đất sống.
Gần đây GS VTX còn có một hội thảo, trong đó GS đã trình chiếu những thước phim của ông về ĐBSCL. Trân trọng.
Hải Yến


Long (ĐBSCL) được chính dòng sông này mang phù sa miệt mài bồi đắp trong 6.000 năm nay. Là một trong những vùng đất màu mỡ nhất thế giới, nét văn hóa và sinh kế của cư dân nơi đây chịu ảnh hưởng của sông nước và biển. Nhưng trong tương lai, đồng bằng có nguy cơ không còn thấy cảnh “con nước lớn, con nước ròng” do sự liên thông với biển đang dần bị cắt đứt. Đồng bằng có khi trở thành một vùng nước hồ tù đọng.

Rồi liệu gần 20 triệu dân sinh sống ở đây, cùng nền văn hóa sông nước có bị lụi dần?
Câu hỏi này cứ đau đáu chúng tôi trong suốt một hành trình điền dã một vòng từ Đồng Tháp Mười, qua Bạc Liêu dài theo Kênh Xáng Quản Lộ – Phụng Hiệp, vòng về Bến Tre theo đường ven biển qua phà Đại Ngãi, băng ngang Cù Lao Dung giữa dòng Hậu Giang.
Miền đất này đang đứng trước những “mất mát” lớn, không chỉ nguy cơ sạt lở dẫn đến tan rã dần do thiếu phù sa từ hệ lụy các đập thủy điện trên dòng Mekong, mà còn do tư duy xem nước mặn là kẻ thù, dẫn đến những công trình to lớn cắt đứt sự liên thông giữa sông và biển.


ĐBSCL có nguy cơ không còn thấy cảnh “con nước lớn, con nước ròng” do sự liên thông với biển đang dần bị cắt đứt – Ảnh: L.Quỳnh
Mâu thuẫn nguồn nước
Ở ấp 4 xã Bình Thới, huyện Bình Đại, Bến Tre, ông Tư Thiệt (Nguyễn Hoàng Thiệt) là người có nhiều ao nuôi tôm nhất quanh vùng: 6 ao trên khoảng 3 ha. Xưa ông nương theo con nước tự nhiên, mặn vô thì nuôi tôm, ngọt vào thì trồng lúa. Nuôi tôm từ năm 1989, ông bảo gia đình mình sống nhờ tôm, đến khi có kĩ thuật nuôi tốt hơn, gia đình ông lại được giàu từ tôm. Năm 2000, tỉnh xây cống đập Ba Lai, ngăn mặn từ cửa Ba Lai vào, trữ ngọt cho toàn khu vực bắc Bến Tre. Vậy là như mọi hộ nuôi tôm khác nằm bên trong cống đập, ông Tư Thiệt phải đào giếng lấy nước mặn ngầm. Ngặt nỗi, ngay nước giếng cũng bị nhiễm kim loại, phải khử độc trước khi vô ao. Toàn bộ hệ thống ao nuôi khép kín, tránh ô nhiễm từ bên ngoài vào. Hết vụ, 60% nước mặn được giữ lại trong ao, làm sạch dùng tiếp cho vụ sau, còn lại thải ra kênh mương bên ngoài. Vùng nước mặn mà hiếm mặn, năm nào mưa nhiều còn phải mua hàng tấn tấn muối đổ vào.
Khó vậy, nhưng ông Tư Thiệt bảo, nuôi tôm vẫn hơn trồng lúa. Như gia đình ông, một vụ lúa với 4 ha ruộng (cũng nhiều nhất vùng) mỗi năm thu được chừng 500 giạ lúa, khoảng 45 triệu đồng, còn thua cả một ao tôm nhỏ cỡ chừng 400mét vuông! Không vậy mà ở cả vùng này, dù nhà nước đã cấm đào giếng đào ao nuôi tôm, nhưng rất nhiều hộ gia đình vẫn đành lén đào ao mới nuôi tôm rồi xây tường cao lên để giấu, đào giếng trong tận phòng ngủ, dưới gầm giường… Tính ra, trong vùng ngọt hóa bắc Bến Tre có đến hàng ngàn cây khoan nước mặn nuôi tôm như vậy.
Là tỉnh cuối nguồn sông MeKong, Bến Tre giáp biển Đông nên những tháng mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau), nước mặn xâm thực vào đất liền hơn 3/4 diện tích toàn tỉnh. Làm sao để trồng được lúa, cây trái? Một hệ thống cống đập Ba Lai hoành tráng với chín hạng mục ra đời. Khi dự án hoàn thành, sông Ba Lai hứa hẹn sẽ trở thành hồ nước ngọt khổng lồ với trữ lượng 90 tỉ m3, phục vụ tiêu úng, thau chua, rửa phèn 115.000ha đất tự nhiên, 88.500 ha đất sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản và phục vụ sinh hoạt cho hơn 2/3 dân số của Bến Tre!
Cống đập Ba Lai nằm gần cuối dòng Ba Lai – một trong chín nhánh của sông MeKong đổ ra biển. Thế nhưng từ ngày “con rồng” Ba Lai bị con người chuyển hóa thành… con đập Ba Lai, toàn vùng bỗng chốc biến thành một vùng “xôi đậu”.
Dẫn chúng tôi tới ngay điểm chữ thập của dòng Ba Lai (có thượng nguồn rất bé, nơi lấy nước từ hai sông Hàm Luông và Mỹ Tho vào), ThS Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia sinh thái ĐBSCL nói rằng, bên trong cống đập Ba Lai hiện nay vẫn bị mặn “tập hậu” từ sông Mỹ Tho và Hàm Luông. Con lộ chạy dọc cù lao An Hóa dài ngoài 20 km nhưng có hàng trăm con kênh lớn nhỏ dẫn nước mặn vào trung tâm vùng ngọt. Ông Trần Hữu Hiệp, tổ trưởng tổ Quản lý cống đập Ba Lai phân trần, đó là vì hai hạng mục âu thuyền An Hóa và Bến Tre đến nay vẫn chưa triển khai được, thì chưa thể tạo thành một hệ thống cống đập Ba Lai khép kín (!). Vậy nên mới sanh chuyện khóc cười. Bên trong cống đập, mặn khiến người dân trồng lúa, mía, dừa không mấy ăn, bèn đua nhau mặn hóa trong vùng quy hoạch ngọt hóa. Còn bên ngoài đập, vùng nước mặn nuôi tôm, sò, làm muối của người dân thì lại lao đao theo dòng ngọt từ trong Ba Lai xả ra mỗi tháng hai lần.
Hóa ra, mâu thuẫn nguồn nước không còn là câu chuyện nóng bỏng giữa các quốc gia trên cùng một dòng Mekong kéo dài từ Tây Tạng đến ĐBSCL, mà đã xảy ra ngay trong cùng một mảnh đất bởi đôi dòng mặn ngọt…



Nuôi tôm trong vùng quy hoạch ngọt hóa là một giải pháp đặng chẳng đừng, vì miếng ăn mưu sinh – ảnh: Chí Nhân


Dù trồng trong vùng ngọt hóa nhưng dừa vẫn bị chết vì mặn “tập hậu” từ sông Mỹ Tho và Hàm Luông vào – Ảnh: Chí Nhân
Chặn mặn trữ ngọt, Ba Lai ngừng chảy
Hoạt động đã được 10 năm, hệ thống công đập Ba Lai từng và vẫn còn gây nhiều tranh cãi giữa các nhà khoa học và nhà quản lý. Một loạt câu hỏi đang được đặt ra. Giá trị của mặn là gì? Giá trị của ngọt là gì?
Có nhất thiết phải trồng lúa khắp nơi không, khi chúng ta đang là nước xuất khẩu lớn thứ hai thế giới, ở phân khúc thị trường giá trị thấp và người nông dân trồng lúa không thể thoát nghèo?
Có nhất thiết phải chuyển đổi hệ thống canh tác ở nơi vốn là mặn, hay mặn ngọt luân phiên sang ngọt bằng mọi giá với những khoản đầu tư lớn, trong khi canh tác nước mặn có thể mang lại giá trị cao hơn?
Suy cho cùng, ngọt hóa là nhằm hai mục đích: nước ngọt cho sinh hoạt của người dân và nước ngọt để chuyển sang hệ canh tác ngọt. Nhưng thực tế lại cho thấy cả hai mục đích đều khó đạt, thậm chí khi tất cả chín công trình của cụm công trình Ba Lai sẽ hoàn tất. Khi đó, vùng bên trong sẽ là vùng tù đọng, ô nhiễm, nước ngọt khó có thể sử dụng cho sinh hoạt. Còn mục tiêu thứ hai, chuyển sang canh tác ngọt, xem ra đắt đỏ, kém kinh tế, mà người dân cũng không muốn.
ThS Thiện tâm tư bảo, ngọt hóa bằng cách biến những dòng chảy liên thông với biển bằng các công trình khép kín, theo thời gian sẽ dần biến bên trong thành một vùng tù đọng, ô nhiễm, dù có xả nước định kì. (Chưa kể, toàn vùng Bến Tre hiện nay vẫn chưa có hệ thống xử lý chất và nước thải, tất cả đều bị đổ thẳng xuống sông, kênh rạch). Môi trường nước mặn bị ngọt hóa hay ngược lại môi trường nước ngọt bị xâm nhập mặn có thể dẫn đến thay đổi thảm thực vật, thành phần các loài sinh vật, và hoạt động sống của con người. Bên bờ phía mặn của cống Ba Lai, người dân vẫn có nơi vung chài đánh bắt, nhưng phía bên kia, tiệt nhiên không còn cảnh ấy nữa. Ông Tư Thiệt thì bảo với chúng tôi rằng, từ lâu ông không còn xài nước sông, vì nó “nhớt nhớt, tanh tanh”. Ông và đa số người dân ở đây quay về dùng nước mưa trữ lại trong lu, y như cái thời xưa ông bà mình vẫn vậy cho hai mùa mặn ngọt.
Dòng Ba Lai đã dần chết. Khảo sát của nhóm chuyên gia Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) tại VN gần đây cho thấy, hai bên bờ Ba Lai đang khép lại dần. Phân tích như Ths Thiện, khi Ba Lai nhận được một lượng nước vào mùa lũ vào, thì toàn bộ phù sa trong lượng nước đó sẽ lắng xuống đáy sông, qua nhiều mùa như thế sông Ba Lai sẽ chết hẳn. Rồi khi khép một dòng như Ba Lai, sẽ làm hai dòng hai bên (Hàm Luông và Cửa Đại) mạnh lên và tái phân phối dòng chảy, gây đảo lộn dòng chảy ven bờ biển, dẫn đến đảo lộn về sạt lở, bồi lắng ven bờ biển, chỗ thì sạt lở, chỗ thì bồi lắng cho đến khi nó đạt trạng thái cân bằng mới. Nghiên cứu của Viện Địa chất, và của nhóm tác giả Nguyễn Thọ Sáo (ĐH Quốc gia HN) cũng chỉ ra rằng, hệ thống thủy lợi Ba Lai đã khiến dòng sông này ngừng chảy. Vậy là, cùng với cửa sông Ba Thắc (Bassac, Bách Sác) ở Sóc Trăng đã ngưng chảy do bồi tụ từ đầu thế kỷ 20, Cửu Long nay đã thành “Thất Long”!
Nước trong mương ít, chỉ tới đầu gối, mặn không ra mặn, ngọt không ra ngọt, lại ô nhiễm nên không thể vào ao vào ruộng được – Ảnh: Chí Nhân
Từ ngày có cống đập Ba Lai, dòng Ba Lai dần trở thành dòng sông chết. Bên trong cống đập giờ vắng bóng người vung chài – ảnh: Chí Nhân
Vũng hồ đồng bằng?
ĐBSCL vừa phơi mình trong cơn hạn mặn lịch sử khốc liệt, khi theo NASA (Mỹ) năm 2016 là năm khô nóng cao nhất trong lịch sử 136 năm. Nên những ngày này, đi suốt nhiều tỉnh miền Tây lại càng dễ nghe người ta bàn, nói về chuyện phòng chống hạn mặn, bão lũ, đặc biệt là bằng nhiều công trình thủy lợi phục vụ sản xuất lúa, nuôi thủy sản. Mới đây, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát đã tuyên bố rằng sẽ tập trung đầu tư xây dựng các công trình lớn đến 2020, từ hoàn thiện hệ thống cống đập Ba Lai bắc Bến Tre, xây dựng hệ thống cống đập khu vực cống An Minh, An Biên, Măng An Thít đến Sông Cái Lớn, sông Cái Bé,…
Nhưng cứ nhìn từ bài học Ba Lai, nhiều nhà khoa học nhiều năm nay đã buộc phải lên tiếng trong tuyệt vọng rằng: nếu như vội vã xem tình hình hạn mặn năm 2016 là tình hình chung, làm cơ sở quy hoạch để từ đó xây dựng công trình kiểm soát mặn ở các cửa sông lớn như Sông Cái Lớn, Sông Cái Bé (sông lớn nhất biển Tây, cửa như nắm rễ đước từ Rạch Giá xuôi vô, tỏa chằng chịt nhiều nhánh khắp mấy tỉnh),… thì sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn lường.
Các dòng sông ở ĐBSCL nhờ ăn thông với biển mà có nước lớn, nước ròng, nhờ đó dòng sông được làm sạch, có cá tôm và hình thành nền văn hóa sông nước. Khi có công trình thì sẽ không còn nước lớn, nước ròng mà bên trong sẽ tù đọng, ô nhiễm, không còn cá tôm, ảnh hưởng văn hóa sông nước. Ngoài ra, sinh thái biển cũng sẽ bị ảnh hưởng. Biển sẽ nghèo đi khi không còn giao lưu sinh thái được với đất liền qua các cửa sông, rạch này.
ThS Thiện nói những công trình, chương trình lớn như thế này, trên thế giới thường được Đánh giá môi trường chiến lược trước khi Đánh giá tác động môi trường cụ thể cho từng công trình. Đánh giá môi trường chiến lược được tiến hành sớm và song song với quá trình ra quyết định là để giúp đưa ra những quyết định ở tầm chiến lược một cách đúng đắn và minh bạch.
Cũng hóa ra, thật thấm thía, nói như TS Dương Văn Ni, ĐH Cần Thơ, ở vùng đồng bằng này, chung qui là vì chúng ta đã quên mất cái vai trò “liên kết” của nước. Bởi vì nước không chỉ liên kết về mặt môi trường sinh thái mà còn là liên kết giữa các thành viên trong cộng đồng với nhau nhờ vào phong tục tập quán, liên kết giữa các cộng đồng sống rất xa nhau nhờ vào giao thương kinh tế, và nói rộng hơn là liên kết giữa các quốc gia nhờ vào việc sử dụng cùng một dòng sông. Vì vậy, nếu cái văn hóa chia sẻ bị mai một, thì “tình làng, nghĩa xóm” giữa các cá nhân trong một cộng đồng ắt sẽ phai nhạt; xung đột lợi ích giữa các cộng đồng sẽ trở nên gay gắt, và bất ổn trong toàn khu vực do mâu thuẫn giữa các quốc gia là điều khó tránh khỏi!…
Theo Lê Quỳnh (Người Đô Thị)

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen