Những ngày cuối tháng 3, trời mưa như trút nước, cả ngày lẫn đêm,
như xót thương cho số phận non sông Bình Định đã rơi vào tay của lũ
vô thần. Qua hơn 2 ngày đêm, chúng tôi không có gì để ăn, ruột đói
cồn cào, quần áo ướt sũng, thật đói và lạnh. Chúng tôi đi ngang qua
những đám gò trồng đậu phụng, nhổ lên hy vọng kiếm củ ăn cho đỡ đói
lòng, nhưng vào mùa đó cuối tháng 2 Âm Lịch, củ còn rất non. Chúng
tôi rửa bằng nước mưa, nhai lấy nước mà thôi. Chúng tôi qua những
cánh đồng bắp cũng thế , chỉ ngậm lấy nước. Qua ngày thứ 3, cả ba
chúng tôi đều bị tiêu chảy, kiệt sức không còn đi nổi. Tôi thấy
tình hình như vậy, chắc là số phận tôi không xong rồi, nên nói với
hai anh bạn đồng hành:“Tôi không đi nổi nữa rồi, hai anh còn sức cứ
đi theo hướng Đông ra biển may ra còn tàu của hải quân của quốc gia
bốc các anh về Sài Gòn.”Thật là cảm động, tuy không cùng đơn vị
nhưng hai anh lính nói:
Không còn cách nào khác, chúng tôi đành vào làng, may ra xin được
thức ăn và dưỡng bệnh sau đó tiếp tục cuộc hành trình. Sau đêm thứ
3, chúng tôi đến một ngôi làng, trước vài thửa ruộng của ngôi làng
có một cái chòi, chúng tôi vào chòi khoảng 2, 3 giờ sáng. Chúng tôi
vắt cho khô quần áo, nằm ngủ đợi trời sáng. Sau những ngày đói
lạnh, bệnh tật, chúng tôi nằm thiếp đi cho đến khi mặt trời mọc.
Sáng hôm đó chúng tôi vào một nhà dân gần đó, để nhờ họ cho cơm ăn
và dưỡng bệnh, để có sức mà đi. Chủ nhà là một người đàn bà nhà quê
trông cũng bình thường như những bà nông dân khác,không có gì phải
nghi kỵ. Sau khi nấu cơm cho chúng tôi ăn xong, chủ nhà chỉ cho
chúng tôi bộ ván để lên nằm nghĩ lưng. Ôi thật là một bữa cơm ngon
nhất trong đời, dầu chỉ có cơm trắng với bầu luộc và mắm ruốc. Nửa
giờ sau, du kích đã vào nhà, súng AK chỉa đầu, bắt chúng tôi trói
ké dẫn đi. Tâm trạng tôi lúc này chỉ còn biết tới đâu hay tới đó mà
thôi. Sự sống còn phó mặc cho số mệnh. Chúng tôi bị dẫn đi nhiều
nơi, đôi khi là trụ sở của làng, đôi khi là trường học, có khi là
ngôi đình làng. Dần dần số người bị bắt cứ tăng lên. Nhiều khi một
ngôi trường Tiểu học nhỏ, mà nhốt số người lên đến hàng trăm. Đêm
đến không có chỗ nằm, chỉ ngồi mà thôi. Ôi thật là những ngày ghê
gớm nhất của cuộc đời, không biết còn có cảnh khổ nào hơn không?
andynguyen
Chúng tôi không được cho ăn uống chi cả. Tự ai có gì nấy ăn mà
thôi. Ngày hôm sau, chúng tôi bị dẫn về hướng Tây, không gian vô
định, ai biết mình sẽ bị đưa về đâu, và sống còn đến ngày nào.
Khoảng thời gian này, không có một quy ước hay chính sách gì cả, hễ
ai bất tuân bọn chúng, thì coi như bị bắn bỏ. Trong đoàn chúng tôi
đi, có một binh sĩ còn trẻ, không dè dặt với chúng, đôi khi anh ta
đi ngoài hàng một chút thì bị bọn chúng lôi ra bắn ngay. Thật là dã
man! Chúng muốn bắn để khủng bố tinh thần của mọi người. Ôi sinh
mạng con người nhỏ hơn là con ong, cái kiến. Dọc đường quốc lộ 19,
từ Bình Khê lên đến chân đèo An Khê, trước kia có lực lượng của SĐ
22 Bộ Binh trấn đóng. Tôi không nhớ rõ là Tiểu Đoàn nào, nhưng
thuộc Trung Đoàn 41. Trước đây có một trận đánh thật là ác liệt,
hai bên vệ đường tử thi của các chiến sĩ VNCH nằm la liệt, có lẽ đã
xẩy ra gần nửa tháng rồi, cơ thể bắt đầu sình thúi chỉ thấy quân
phục và sọ người trắng hếu. Một số tử thi khác thì còn loang lổ một
ít tóc trên phần sọ đã rữa. Mùi tử khí xông lên nồng nặc khắp trời.
Ôi chiến tranh và thân phận con người, tôi lại nhớ đến mấy câu thơ
của bà Đoàn Thị Điểm:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi,
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn…..
Vào thời gian này, tôi không còn nhớ rõ là mình đã nghĩ gì, chỉ có
một con đường, chúng muốn đưa mình đi đâu thì mình theo đó thôi,
mặc cho số phận đẩy đưa, cuối cùng cùng là giải thoát kiếp người.
Chúng tôi đi đến ngày thứ 3 thì đến một trại trước kia là mật khu
của chúng. Trại này nằm trong rừng sâu, cách đèo An Khê khoảng 50
km từ hướng Bắc. Cả mấy ngày đi, chỉ ăn được một lần, chúng tôi đi
ngang 1 địa phương thì được đồng bào nấu cơm gói sẵn bằng lá chuối
phát cho chúng tôi mỗi người một gói không biết là lệnh của họ hay
lòng tự nguyện của đồng bào. Đến gần phạm vi của trại, chúng dừng
lại để nghĩ và chuẩn bị cho chúng tôi nhập trại, trong lúc này tôi
gặp lại một số anh em binh sĩ trong Pháo Đội, thật mừng và thật tủi
cho thân phận những kẻ chiến bại. Thời điểm này chúng bắt giao nộp
hết tư trang như đồng hồ, bút máy, nhẫn….Tôi thấy chúng dùng nón để
thu, không ghi sở hữu của ai cả. Tôi biết bọn này muốn lấy không
rồi, tôi làm dấu cho anh thường vụ Pháo Đội giấu chiếc đồng hồ
Boulevard Sport của anh, khi đi đến bờ sông có 1 số người Thượng
đứng bán chuối hoặc cơm. Chúng tôi đổi chiếc đồng hồ lấy 1 nắm cơm
muối mè gói lá chuối, hai thầy trò chia nhau ăn cho qua cơn đói
lòng. Thật là: “Đoạn đường ai có qua cầu mới hay”, vật chất chỉ có
giá trị khi thời gian thích hợp. Còn với thời gian này, vật chất dù
cao quáy thế nào cũng không qua nổi một gói muối mè.
Thế là chúng tôi lần lượt vào trại. Sĩ Quan đều bị đem đi cùm, từ
Thiếu Úy trở lên là bị cùm. Số lượng SQ bị bắt mỗi ngày một đông,
chúng thả cấp nhỏ, cùm cấp lớn. Bắt được Đại Uý cùm Đại Uý thả
Thiếu Uý. Cứ như là cấp số cộng. Phải nói bạn nào có thời gian ở
trại Vĩnh Thạnh khi đọc dòng hồi ký này, không thể nào quên được
một nơi gọi là ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN đúng nghĩa của nó, không nơi nào
ghê sợ hơn. Vì trại nằm trong rừng sâu, lam sơn chướng khí. Tổng số
binh sĩ bị bắt vào thời điểm cao nhất ở đây có thể lên đến cả ngàn
người, nhưng sau hơn 4 tháng, số tử vong lên đến cả trăm. Sốt rét
chết, đói mà chết, bị đánh mà chết. Các đơn vị bộ đội cộng sản ở
đây đa số đều là những cán binh CS trở về từ Côn Đảo, lòng nung nấu
thù hận. Họ muốn trả những trận đòn thù trên các người lính Cộng
Hòa còn chút sĩ khí đã ở lại chiến đấu để bảo vệ quê hương. Có 1
anh Trung Úy người miền Nam trước kia nguyên là giáo sư bị bắt vào
trại cùng thời gian với chúng tôi, vì quá căm phẫn trước sự hành hạ
của bọn chúng, nên chạy ra vọng gác giựt súng AK của tên bộ đội
đang gác cổng nhưng không thành công vì cơ thể suy nhược, ăn uống
thiếu thốn làm sao khoẻ bằng chúng. Sau khi giựt súng không được,
anh ta bị rược chạy vòng vòng trong trại. Vì trại quá đông người
nên chúng không bắn được. Vì không còn đường thoát, anh ta chạy đến
bên những chảo nước đang nấu để cho tù uống và nhảy vào chảo! Thật
là rùng rợn và thương tâm! Chúng dập tắt lửa, mang anh ta ra ngoài,
nhưng anh ta vẫn còn sống. Anh ta chửi rủa bọn CS luôn mồn:
“Đả đảo Cộng sản. Quân dã man khát máu”.
Chúng cho khiêng anh vào trạm xá. Thật ra chỉ là một cái nhà nhỏ,
vài lọ thuốc, vài lọ cồn mà thôi. Anh ta vẫn chửi liên hồi. Chúng
lấy đất sét cho vào miệng, lấy cây dộng cho đến khi hết thở. Ôi!
các bạn có hình dung được con người hay là ác quỷ nhỉ. Tôi có người
bạn ở cùng quê tên Phan Duy Liêm, cấp Tr/Uý ĐĐT/ĐPQ cũg bị bắt vào
trại này, tôi không nhớ anh đã làm gì phật ý chúng mà buổi chiều
hôm đó, tôi chứng kiến tận mắt, 3 tên bộ đội đứng 3 góc đánh anh từ
góc này văng sang góc kia, như là người ta chuyền bóng. Là thân
phận tù sao dám chống trả chúng. Sau khi anh được thả ra, lục phủ
đã bị dập nát, đã bị tổn thương. Mặc dù thời gian sau được gia đình
tiếp tế thuốc men chữa chạy, sau hai năm hao tổn, anh đã lìa đời,
bỏ lại một vợ và một con thơ, là bà con họ hàng với gia đình tôi.
Ở đây khí hậu chưa có một nơi nào dễ sợ hơn. Danh từ sơn lam chướng
khí thật là đúng nghĩa của nó. Các nhà giam (lán) được cất dưới
những tàng cây cổ thụ, suốt ngày ít khi thấy ánh sáng mặt trời,
sương buổi sáng rất nặng và dày đặc, 9 hay 10 giờ mới thấy mặt
trời, máy bay thám thính cũng chỉ thấy toàn màu xanh của rừng.
Khoảng hơn tháng đầu chúng chưa cho đi làm, mỗi ngày chỉ phát hai
nắm cơm bằng một bát trung bình, vơi chứ không đầy, mì khô hết 80%,
vài hột gạo có thể đếm được, tất cả chúng tôi đều đói và sốt rét.
Ở đây trung bình một tuần sốt rét 3 lần. Sốt thì nằm, dậy được thì
đi lao động, xuống trạm xá khai bệnh, cặp nhiệt độ 40 độ C, cho vài
viên Nivaquine, 39 độ trở lui, thì chúng cho uống một thứ rễ cây
tên là “mật nhân”. Trên đời nà y chưa có thứ nào đắng như thứ này,
uống xong quay đi là nôn thốc, nôn tháo, nôn đến mật xanh, mật
vàng, lần sau sốt hoặc nằm liệt không dám khai bệnh nữa, hết sốt
thì dậy đi làm. Con người thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng, sốt rét triền
miên, nên chúng tôi trong như những thây ma còn sống. Da mặt thì
vàng bệt, xám ngoét, mắt trũng sâu, chân đi siêu vẹo, quần áo tả
tơi. Ôi! chúng tôi thật là tới tận cùng của địa ngục. Chúng tôi nào
có tội tình gì, chỉ biết cầm súng bảo vệ quê hương không có một ý
đồ bất chính, không có một tham vọng nào làm tổn thương đến giá trị
vật chất hay tinh thần của con người, tại sao chúng tôi lại phải bị
trừng phạt một cách khủng khiếp như thế? Có những lúc tuyệt vọng,
anh em nói đùa:
“Chúa hay Phật gì cũng bỏ chạy hết rồi còn đâu mà cầu nguyện.”
Sau hơn 3 tháng tôi bị bắt, gia đình tôi mới được tin tức. Vợ tôi
từ Phan Thiết ra Bình Định đến trại 3 Vĩnh Thạnh để thăm, thật là
một chặng đường vất vả. Vì xe cộ không có, vợ tôi phải đi bộ khoảng
50km đường rừng, phải ngủ lại ở trại 2 rồi mới lên trại 3 được.
Biết bao nhiêu gian nan và sợ hãi, khi được gặp mặt, vợ chồng tôi
nhìn nhau nước mắt lưng tròng, hỏi thăm vài câu sức khoẻ, đâu còn
lời nào để nói. Và biết nói gì hơn khi mỗi bàn có hai bộ đội ngồi
bên cạnh, súng AK lăm lăm, nói được gì đây. Về nhà, vợ tôi bị sốt
rét chữa trị gần 2 năm mới bình phục. Thời gian ấy, vợ tôi phải
chuyền sẻrum liên tục, thế mới biết rừng thiêng nước độc đến cỡ
nào. Sau đó thân phụ tôi đi thăm một lần, về cũng bị sốt rét liên
tục. Từ đó về sau, chỉ có em trai tôi còn khoẻ mạnh đi thăm mà
thôi.
Có những lúc đói quá, mắt đổ đom đóm vàng khi nhì thấy các anh em
khác có người tiếp tế, có đồ ăn. Muốn quên đi, tôi chỉ còn biết ra
gốc cây ngồi luyện Yoga cho quên đi nỗi đói khát, bệnh tật. Ai có
biết sách lược triệt hạ kẻ thù, không sợ chúng phản kháng là làm
cho chúng đói triền miên, không bao giờ cho chúng ăn đủ no. Suốt
ngày tư tưởng lẩn quẩn, mong có cái gì bỏ vào miệng, vào bụng mà
thôi, không còn nghĩ được thứ gì khác trên đời. Ôi con người có
những lúc phải như thế này ư? Tôi có đọc cuốn Tiểu Đoàn Trừng Giới
của Erich Maria Remark, nhà văn Đức, tù binh Đức, cũng bỏ vào các
trại tập trung cũng đói như chúng tôi, nhưng thời gian ngắn hạn và
không bệnh tật. Còn chúng tôi đói dài hạn và bệnh tật triền miên.
Tôi còn nhớ vào thời gian cò ở quân ngũ, tướng độc nhãn Mó Dayan
của Do Thái có qua thăm trường Võ Bị Đà Lạt, đã nói:
“Muốn chiến thắng Cộng Sản, phải sống với Cộng Sản”.
Xin những ai, có làm chính khách, chưa bao giờ biết ngục tù Cộng
Sản, thì xin nghĩ đến bao nhiêu anh hùng đã hy sinh, bao nhiêu
triệu đồng bào còn đang sống vất vưởng nơi quê nhà, vật lộn với
miếng cơm manh áo hàng ngày vì phương châm “làm cho tập thể, hưởng
theo nhu cầu” của chúng. Và cả một thế hệ chúng tôi tù đày oan
khiên, khổ nhọc, thì chớ nên phụ quá khứ một thời tự do, dân chủ,
thanh bình của miền Nam Việt Nam.
Ở trại này có những cách giết người rất dã man. Các bạn có biết,
một cái nhà cùm kín mít, bên trong là một dãy khóa lại, tất cả việc
ăn uống vệ sinh đều tại chỗ, đó là cùm thông thường. Nếu chúng muốn
tra tấn ai, cho hai chân vào hai lỗ chéo nhau, chân phải lỗ bên
trái, chân trái lỗ bên phải, dưới mông ngồi có một cây đà vuông
thông ra ngoài, xuyên qua một cây trụ thẳng đứng khoét một lỗ hình
chữ nhật, để cây đà vuông có thể di chuyển được từ thấp lên cao,
chúng gọi là cùm yên ngựa. Mỗi lần nâng cây đà lên là ống quyển bị
ép vào lỗ cùm. Bên ngoài chúng dùng một miếng nêm hình tam giác để
đóng, mới đầu đóng là tù nhân la thất thanh sau đó im dần…im dần,
tù nhân đã hết thở. Ôi địa ngục ở đâu, có lẽ còn ít sợ hãi hơn nơi
này. Chúng tôi bị nhốt trong một cái lán gần bên nhà cùm. Đêm đêm
nghe tiếng la thất thanh xé tâm can, rồi dần , im dần và tắt hẳn…
Thế là một người đã ra đi không biết là tốt hay xấu với chúng tôi,
biết đâu vài hôm đến lượt mình.
Ở đây có những cái chết rất kỳ lạ, buổi sáng còn ngồi chơi nói
chuyện, vì là ngày Chủ Nhật, anh bạn ở cùng quê, Đ/Uý Dậu TĐT/CB,
ngồi ngã ra, quay quay như gà mắc toi, đem xuống bệnh xá, chừng 1
giờ đồng hồ sau thì chết. Khí hậu thật là rùng rợn, sinh mạng con
người còn thua những loài côn trùng. So với tù binh của Đức Quốc Xã
thời Đệ Nhị Thế Chiến đâu có khác gì nhau.
Sau một tháng nhốt một chỗ, chúng tôi được chia ra để đi lao động.
Những công việc chính là nhổ mì, trồng mì, và làm cỏ mì. Buổi sáng
tù tập trung do 1 hoặc 2 tên bộ đội dẫn đi tới những bãi mì trong
núi hoặc trên đồi cao. Chúng tôi dàn hàng ngang, mỗi người một cái
cuốc, dùng để cuốc cỏ xung quanh cây mì. Cây mì mới mọc cao chừng
5cm hay một tấc, rất dễ lẫn lộn với cỏ. Chúng tôi đâu phải nhà nông
chuyên nghiệp, từ nhỏ cha mẹ đã hy sinh gian khổ, nuôi con ăn học,
mong con sau này thành đạt đâu nghĩ đến việc phải dùng cái cuốc,cái
cày. Ôi công lao của cha mẹ lo lắng nuôi con trong thời điểm này
hình như đã sai đường. Nếu chẳng may chúng tôi cuốc gãy cây mì
chúng thấy được, thì báng súng AK vào đầu, vào cổ, mũi súng thọc
vào sườn, vào bụng.
Anh bạn tôi là Đ/Uý Dậu có lẽ bị đòn thù trong trường hợp này, nên
đã mất đi vài tuần sau đó, trong bữa sáng Chủ Nhật mà tôi vừa nói ở
trên. Thật là thê thảm, những tù nhân chẳng may mà mất đi, chúng
quấn bằng miếng vải ni lông, dùng để làm áo mưa, xung quanh kẹp 7
nẹp tre, quấn lại như một khúc dồi lớn. Hai người khiêng, hai người
đào lỗ ngoài rừng rồi lấp đi. Xong chúng cắm một cái bảng nhỏ viết
tên tù nhân bằng sơn. Với 2,3 tháng nắng mưa, thì không còn biết ai
là ai nằm đó nữa. Vì thế gia đình anh Dậu đã cố gắng nhiều lần,
nhưng vẫn không tìm thấy xác anh ở đâu để đem hài cốt của anh về
mai táng nơi quê nhà.
Rất may là khoảng tháng thứ 5 chúng tôi chuyển trại, lúc này đại đa
số là Quân, Cán, Chính VNCH đã bị bắt hoàn toàn, không còn 1 lực
lượng nào trong nước có thể đối kháng và phá hoại chúng được. Chúng
thành lập những Tổng Trại Tù Binh để quản lý. Một Tổng trại như thế
do cấp Trung Đoàn chính quy quản lý do Thủ Tướng Cộng Sản Phạm Văn
Đồng ký, mục đích là để trấn an dân chúng và để trình làng với Quốc
Tế. Giai đoạn cuối ở địa ngục này, tôi bị sốt rét hành hạ liên tục,
có lẽ đã xâm nhập vào gan, lá lách hay thận. Người tôi vàng vọt,
xám ngoét, mắt trũng sâu, bụng ỏng, chân thì dần dần to ra như chân
voi bước đi không nổi nữa. Chúng tôi được đưa xuống Tổng trại 4 An
Trường. Ôi, thật là một cuộc di chuyển có khác nào như chở heo, chở
gà ra chợ để bán! Một chiếc xe Motolova như vậy chở xấp xỉ cả trăm
người, người sau phải bám người trước cho chặt, nếu không khi xe
quẹo, quán tính của trọng lượng sẽ làm văng những người sau ra
ngoài mà chết. Súc vật đem bán cần sống, cần khoẻ chứ chúng tôi thì
không….
Tôi được đưa xuống trại 1 của Tổng Trại 4, nhờ gia đình tiếp tế,
thuốc men đầy đủ, và ở trại này, chế độ ăn uống có phần dễ thở hơn,
nên tôi đã dần dần hồi phục và giữ được cái mạng còm cho đến hôm
nay. Phải nói rằng sáu năm tù đày, thời gian ở trại này là tương
đối dễ chịu nhất so với các trại khác. Vào thời điểm này, đa số anh
em đều tin rằng sau 3 năm rồi thì thế nào cũng được thả về, nhưng
thật sự là một sự lầm lẫn to lớn. Lời nói của chúng như những bó cỏ
treo trước đầu con ngựa đang kéo xe, cỏ thì nhìn thấy đó, nhưng con
ngựa có bao giờ ăn được đâu?….Những ngày kêu thẩm vấn, tự khai, ôi
thật là khổ sở. Nói thế nào chúng cũng không tin. Hỏi:
“Từ ngày anh tham gia nguỵ quân, ngụy quyền đến giờ giết bao nhiêu
cách mạng?”
Tôi trả lời:
“Tôi là đơn vị Pháo Binh yểm trợ, họ yêu cầu tác xạ ở đâu, chúng
tôi bắn ở đó. Kết quả do các đơn vị Bộ Binh tham gia họ ghi nhận và
báo cáo, chúng tôi đâu có trực tiếp tham dự ”
Hỏi:
“Anh nói anh không giết cách mạng sao họ cho anh mang lon Đ/Uý sớm
như vậy?”
Tôi trả lời:
“Theo chế độ đào tạo SQ tại miền Nam, có bằng cấp mới được chọn, 1
năm Chuẩn Uý, được thăng Thiếu Uý, 2 năm Thiếu Uý được thăng Trung
Uý. Sau đó khoảng 3 năm đủ điểm thì lên Đ/Uý.”
Nhưng dù có nói thế nào chúng cũng chẳng tin. Và cứ như thế hết
ngày này đến ngày khác, tôi cứ bị kêu liên tục, hỏi hơn cả tháng,
chúng cứ xoáy vào một điểm là giết hại bao nhiêu cách mạng. Cuối
cùng tôi phải moi một trận yểm trợ nhớ mang máng theo kết quả của
Bộ binh báo cáo, là địch quân tổn thất vài chục chúng mới hết hỏi.
Ai có ngờ đâu đó là cái giá treo cổ mà mình tự gánh vào, sau này
chúng cho là thành phần ác ôn có nợ máu với nhân dân….
Thời gian ở Tổng trại này hơn 1 năm, sau đó có lẽ tình hình thanh
lọc tù nhân giảm dần, chúng tôi chuyển từ tổng trại này sang tổng
trại 5 thuộc các đơn vị tỉnh Phú Yên quản lý. Trại này cũng là một
trại sắt máu, chúng tôi làm việc như lao động khổ sai, và cơm thì
không bao giờ được ăn no. Có một vài anh em bỏ mạng vì đốn cây rừng
cho chúng, cây đè mà chết hoặc thương tật suốt đời. Các bạn từng
xem những phim La Mã thời Caesar, các nô lệ kéo gỗ hay kéo đá,
chúng tôi cũng vậy. Một khúc gỗ súc dài 4 hoặc 5 mét, đường kính
khoảng 7 tấc, xỏ 4 dây thừng, mỗi bên 4 người khiêng. Đường từ trên
núi, leo dốc, xuống ghềnh hiểm trở, nếu rủi ro mà té ngã thì coi
như cái mạng đi đoong. Súng AK thì lăm lăm, sẳn sàng nhả đạn nếu
chúng tôi tìm đường chạy trốn. Ôi, nếu so sánh, chúng tôi và nô lệ
thời Trung Cổ của La Mã có khác gì nhau đâu.
Tôi còn nhớ nằm cạnh tôi có ông bạn già là Tr/Tá ĐN Thanh trước 75
là CHT Quân Cảnh Quân Khu 2, và có thời gian Tr/Tá Thanh đã từng
làm Trưởng trại giam tù phiến cộng ở Phú Quốc. Có một ngày họ phân
công tôi và bác Thanh là 1 cặp trong toán chặt gỗ làm nhà, chỉ tiêu
dài sáu mét, đường kính từ 1.5 đến 2 tấc, phải là gỗ tốt, lá nhỏ,
vỏ mỏng. Tôi và bác Thanh phải lên núi cao tìm gỗ vì dưới thấp
không còn nữa. Sau khi chặt xong, tôi và bác Thanh khiêng về trại.
Vì lúc đó tôi còn trẻ nên nghĩ rằng mình khiêng phần gốc để bác
Thanh phần ngọn nhẹ hơn. Từ trên triền núi cao, tôi lao xuống dốc
vì nặng quá, không kềm được, nên đã té ngã nhiều lần. Rốt cuộc để
khỏi tai nạn, bác Thanh dành khiêng phần gốc vì thật sự mà nói, bác
rất khoẻ và rất đô con. Tối về sinh hoạt kiểm điểm xong, bác nằm và
than sao đau lưng và khổ quá. Bên cạnh tôi có anh bạn Luật sư Lê
Đình Khang nói nhỏ:
“Bác khổ là vì hồi đó bác hà tiện quá mà.”
Bác càu nhàu hỏi:
“Hà tiện gì?”
Anh bạn Khang nói:
“Nếu hồi đó bác sắm bao tải cho nhiều, cứ mỗi chuyến C130 chở tù
phiến cộng từ Sài Gòn ra Côn Đảo, bỏ hết vào bao ném xuống biển,
thì đâu có ngày hôm nay.”
Bác và chúng tôi cùng cười, quên đi nỗi đau đớn nhọc nhằn.
Trong thời gian ở trại này, chúng tôi chứng kiến một cảnh thương
tâm. Có một số anh em trốn trại nhưng không thoát được, tôi chỉ nhớ
tên 2 người là T/Tá Giang và T/Tá Phước, 2 người còn lại tôi không
nhớ được. Chúng cho làm mỗi người một cái lều, như lều cắm trại,
sát mặt đất, có khung bằng ván để nằm, làm hệ thống cùm dưới chân
bằng gỗ, khóa lại suốt ngày đêm, trông giống như những chiếc nhà mồ
nằm ngay tại vọng gác trước mặt trại. Chúng tôi ngày nào lao động
cũng phải đi ngang qua, trông thật đau xót và thương tâm, nhưng đâu
biết làm sao khác hơn….
Vào một đêm, bỗng dưng lửa cháy các chòi, chòi của T/Tá Giang là
nặng nhất. Họ được đưa đi bệnh viện Tuy Hòa để cấp cứu. T/Tá Giang
phải cưa hai chân đến đầu gối. Các bạn khác đều bị phỏng nhưng cũng
được lành. Chúng tôi đều nhận định rằng chúng muốn đốt cho chết rồi
cho là tai nạn, vì các chòi nằm giữa miếng đất trống thì sao lại có
hỏa hoạn.
Khoảng 5 tháng sau, họ thả anh Giang về. Gia đình từ miền Nam phải
lo phương tiện di chuyển anh, sau 75 gạo còn không đủ ăn, làm sao
mà sắm xe lăn. Tôi nghe sau này hình như anh đã quyên sinh vì
nghịch cảnh gia đình. Ôi thân phận con người, thân phận của những
kẻ chiến bại, dưới nanh vuốt của một lũ bạo tàn nhất trong lịch sử
của nhân loại.
Và cuộc đời chúng tôi cứ kéo dài như thế thôi, niềm tin được thả về
còn xa lắm, chỉ khi nào sức cùng lực kiệt, chúng bảo gì nghe đó, sự
đối kháng không còn nữa, may ra mới được về, lúc đó liệu còn sống
sót bao nhiêu người đây. Phần cá nhân tôi, có một hôm, tôi bị sưng
chân phải đi cà nhắc, xuống trạm xá được cho làm việc nhẹ . Buổi
sang 1 tên bộ đội vào kêu chúng tôi đi làm, thấy tôi không chuẩn
bị, hắn hỏi tại sao, tôi trả lời đau chân, trạm xá cho làm việc
nhẹ. Hắn trừng mắt, giơ súng lên và bắt tôi đi làm với đội. Tôi
phải cà nhắc theo đội để đi làm. Đứng cuốc đất suốt ngày bằng 1
chân, ngày hôm sau chân kia sưng phù lên. Thế là tôi phải nằm liệt
mấy ngày. Ôi, bạn có hình dung được chúng tôi phải chịu đựng như
thế không?
Sau hơn 3 năm chúng tôi được chuyển giao cho ngành Công an quản lý.
Chúng tôi thuộc loại tù chuyên nghiệp, được chuyển đến trại A30 ở
Tuy Hòa. Trại này tập trung đủ các thành phần, hình sự, vượt biên,
những người bị bắt năm 78,79 họ gọi là phản động, và chúng tôi từ
các tổng trại 5, tổng trại 8, Trại Lam Sơn, Trại Thanh Bình,
v.v….Cảm nghĩ của tôi khi đến trại này là thôi, thế là cuộc đời gắn
liền với chữ Tù. Giống như nhân vật Papillon của Henrie Chariere. Ở
tù không biết tại sao mình ở tù, ngoại cảnh đưa đến mà mình không
tài nào vùng vẫy được. Hay gần giống như nhân vật chính trong tác
phảm “Giờ thứ 25″ của một nhà văn Nga tôi không nhớ rõ tên. Hết ở
tù bởi quân Đức, rồi đến Nga, rồi đến Đồng Minh, khi ra đi thì mới
lấy vợ, khi về vợ đã 3 con rồi, mỗi quốc gia, một đứa.
Dưới tay Công An quản lý, thật là một sự xảo quyệt của con người,
tinh vi đến mức không thể nào diễn tả được. Ở đây cũng thiếu thốn
và đói như những trại khác, nhưng ở đây thì gia đình thăm nuôi,
tiếp tế cho nhận thoải mái. Mục đích của chúng, cứ cho người nhà
thăm nuôi ăn cho no, làm việc cho chúng vượt chỉ tiêu, thì đâu có
gì tốt bằng đâu nào. Các trại khác thì thân nhân thăm nuôi chỉ cho
đem quà, bánh, thức ăn không cho nhận gạo. Ở trại A 30 này, không
tiếp tế gạo cho tù nhân là một thiếu sót lớn. Lần thăm ban đầu gia
đình tôi không biết, sau mới hiểu ra gạo là chính. Đến A 30, chúng
tôi khai phá những cánh đồng ngút ngàn. Tất cả những cánh đầm lầy
biến thành ruộng xanh ngút tầm mắt, và những cánh đồng mía chỉ thấy
đường chân trời, tầm mắt không thể nhìn hết. Chúng lại lên lớp:
“Ta làm ta hưởng. Lao động là vinh quang.”
Ôi thật là bực lỗ tai. Sao có những con người, chỉ biết nói và
không cần thái độ của người nghe. Chúng tôi làm cho họ hưởng, nếu
gia đình chúng tôi không nuôi thì chúng tôi đã chết đói rồi.
Ở đây có một trường hợp, anh Đ/Úy Thức đơn vị Dù, tôi không biết Lữ
Đoàn mấy vì ở khác lán. Buổi chiều đi lao động về, anh gặp tên
Tr/Tá Hạnh Công An Giám Thị trưởng Trại A 30 hỏi thăm và nói gì đó,
sau lên lớp…Vì hắn quá trâng tráo và dối trá nên anh Thức dằn không
nỗi nhảy vào đánh tên Giám Thị trại. Công an phòng vệ đã nhào vô
bắt và đán anh Thức, không thể nào diễn tả được. Chỉ biết sau khi
đánh xong, chúng bỏ anh vào xe cút kít đẩy vào chỗ biệt giam thì
thấy anh như một đống thịt, máu me đầy mình! Ôi con người đến thế
thì thôi! Tôi nghe sau đó họ đưa anh xuống bệnh viện Tuy Hòa để
điều trị và nghe đâu hình như có người bà con làm lớn ở Hà Nội lãnh
anh đem về nhà. Từ đó đến nay, không còn được nghe gì hơn nữa,
không biết anh có còn sống, và nếu như có đọc những dòng này của
tôi, thì xin anh nghĩ, lúc đó chúng tôi rất căm phẩn chúng nó, và
xót thương anh nhưng chúng tôi đành bất lực……
Tôi cũng không biết nói sao, vì mỗi con người có trình độ nhận thức
khác nhau, phải nói rằng nếu nghị lực không đầy đủ thì sẳn sàng làm
tay sai cho chúng. Có một ngày, chúng tôi đang cuốc cỏ thì tên Công
An quản giáo kêu tôi ra giữa đám mì, giở trò giáo đầu là tôi lao
động lấy lệ, sinh hoạt không chịu phát biểu, ù lì, là thành phần
chống đối ngấm ngầm, như vậy làm sao tiến bộ, cách mạng xét cho các
anh về. Tôi muốn bật cười nhưng không dám, vì nó đã nhàm với chúng
tôi. Nghe bao nhiêu năm rồi. Tôi lặng thinh, hắn nói tiếp:
“Bây giờ anh muốn thể hiện cho chúng tôi thấy sự tiến bộ của anh
thì anh phải theo dõi báo cáo tư tưởng của anh nào chống đối cách
mạng, ai phát biểu những gì bất lợi cho cách mạng. Báo cáo trực
tiếp với tôi, hay bỏ vào hòm thư trước trại.”
Tôi phải trả lời hắn theo sách vở:
“Thưa cán bộ, nhiệm vụ chúng tôi ngoài việc học tập lao động, tôi
còn phải báo cáo ngay nếu phát hiện được những thành phần nào trốn
trại.”
Hắn nói:
“Tôi yêu cầu anh báo cáo những anh nào phát biểu chống đối kìa.”
Tôi vâng lấy lệ. Khoảng tháng sau, hắn kêu tôi ra lần nữa vì không
thấy báo cáo của tôi, hắn hỏi:
“Tôi không thấy báo cáo nào của anh hết, anh là thành phần ngoan
cố, chống đối.”
Tôi nói:
“Tôi có để ý một hai bữa, thấy anh em ai cũng an tâm, đâu có nói
gì, thành tôi không có gì để báo cáo.”
Hắn đơn cử một vài lời nói mỉa mai của vài anh em. Tôi nói:
“Anh em vui miệng nói đùa, tôi không để ý.”
Thế là hắn lôi tôi ra, dùng báng súng đập cho một trận. Tôi mang
thương tích và nước mắt căm hờn về trại, cơm nuốt không vào. Không
phải đau mà khóc nhưng uất hận làm cho nước mắt tuôn trào. Tối hôm
đó một vài anh em mang thuốc giảm đau và dầu xoa bóp cho tôi, thật
là an ủi. Dầu sao chúng tôi cũng còn có nhiều anh em nghĩa khí và
có tình người.
Bọn hắn cũng có mắt chọn người lắm. Mỗi ngày chúng tôi đi cuốc đất,
cả đội dàn hàng ngang, chỉ tiêu mỗi người 4 mét chiều rộng và 200
mét chiều dài, chúng chọn một tên kêu ra nói nhỏ:
“Anh ráng cuốc 250 mét, kỳ sau gia đình anh lên thăm nuôi tôi sẽ
can thiệp với trại để cho anh được gặp gia đình ban đêm.”
Ôi, một sự hứa hẹn tuyệt vời. Tù nhân nào lại không muốn hàn huyên
với gia đình sau bao nhiêu năm dài ngăn cách, bao nhiêu biến cố vật
đổi sao dời. Có người suy nghĩ chín chắn thì thấy là chuyện đau khổ
thêm cho vợ mình, có người chuộng vật chất thì cho đó là một đặc ân
của Cộng Sản. Thật là một thủ đoạn quá tinh vi. Thế là hôm sau, tên
được kêu cuốc vượt trội hơn anh em khác. Tối về họp kiểm điểm chúng
nêu ra:
“Anh A cũng như các anh, cùng sức vóc, cùng tiêu chuẩn ăn uống như
nhau. Người ta cuốc được 250 mét, các anh cuốc có 200 mét, lại kêu
không đủ giờ, chứng tỏ các anh làm cầm chừng, lười lao động. Bao
giờ các anh mới tiến bộ đây?”
Bắt đầu từ ngày đó, chỉ tiêu là 250 mét/ngày. Chúng tôi cuốc từ
sáng sớm đến chiều tối, tay chân rã rời, tai như bốc khói. Trên
đường đi về trại, thân thể rã rời ngất ngưỡng như người mộng du, vì
sức đã cạn rồi. Chúng tôi chửi thầm, ôi những thằng ngu, nào dám
chửi thẳng vào mặt, nó mà báo cáo một phát là biệt giam, hai chân
vào cùm, làm bạn với gián…..
Ở đây cũng có tổ chức những đêm văn nghệ, diễn viên là các em vượt
biên bị bẳt. Các em còn rất trẻ, có em đã bị bắt vào đây đến 3 lần,
thật đáng thương. Họ cho tập dượt, và cho trình diễn những đêm thứ
7, chủ nhật hay các ngày lễ của chúng. Nội dung hình như chúng tôi
gần như thuộc lòng, vì xem đi xem lại, tháng này qua tháng khác.
Khi nào tổ chức văn nghệ là chúng lùa hết ra sân vận động, không
được ở lại trong trại. Tôi và anh bạn Thắng đem áo mưa ra để nằm
ngủ, chúng bắt gặp. Thế là hôm sau chúng họp kiểm điểm là chúng tôi
không chịu tiếp thu văn hóa cách mạng, thành phần bướng bỉnh ù lì.
Có những trò khác, bọn chúng mị dân, mà ngay cả một số gia đình
chúng tôi cũng nghĩ chúng là nhân đạo. Thí dụ sau khi cho vợ con
thăm nuôi, tiếp tế, tối còn cho gặp. Ngày hôm sau, gia đình về,
chúng đưa sổ cho thân nhân viết cảm tưởng. Chúng đem trình làng với
đồng bào ở ngoài hay các phái đoàn quốc tế viếng thăm. Chúng đem
khoe khoang cũng như phổ biến trong trại, thế thì nhân đạo quá đi
chứ, thử hỏi có thân nhân nào dám viết lời không tốt cho chúng đâu.
Ở trại này, trước khi chúng tôi chuyển đến, có nghe kể lại một
chuyện thương tâm. Là có số anh em giựt súng tên Công An định bỏ
chạy nhưng bị một tên Tr/Tá của ta ôm lại để cho Công An bắn chết 1
hay 2 đồng đội của ta. Cả trại rất căm phẫn và khinh bỉ tên này.
Khi chúng tôi đến trại A 30 thì tên này đã được bọn Cộng Sản cho
định cư vùng kinh tế mới Mai Liên do trại quản lý và được đem gia
đình đến sinh sống vì hắn có công với cách mạng. Tên này là Tr/Tá
Lập trước kia làm Quận Trưởng quận Vạn Ninh, tôi biết vì vợ của hắn
có chút bà con xa với gia đình tôi. Những năm sau khi được phóng
thích về, có một lần tôi ghé thăm gia đình cha mẹ vợ hắn, thì mới
hay việc đời có vay, có trả, thời gian sau vợ hắn đã bỏ hắn, sống
với người khác rồi.
Những khổ hình ở trại làm sao mà nói cho hết, tôi chỉ ghi lại những
điều mình nghe, mình chứng kiến để bạn đọc suy nghĩ thấy cái bạo
tàn, quỷ quyệt của chế độ để đem một chút ánh sáng cho những ai vì
một chút quyền lợi riêng tư mà muốn cái gọi là ” hoà hợp hòa giải
với Cộng Sản”. Các bạn có biết, cảnh đời tù tội là đắng cay, khổ
nhọc nhưng cũng có lắm chuyện cười ra nước mắt. Chúng tôi là những
thành phần gồm sinh viên, giáo chức, cán sự, hay hành chính bị động
viên. Dẫu sao, với xã hội miền Nam thời đó chúng tôi cũng là thành
phần gọi là trí thức chút ít. Từ nhỏ cha mẹ sinh ra đã hy sinh cho
con ăn học những mong cho con mình đỗ đạt, cho cuộc sống vững vàng,
chúng tôi nào có quen các cuốc, cái cày. Khi bị bắt vào đây chúng
xem bọn tôi như một lũ ăn hại, vô tích sự.
Có một ngày đội chúng tôi đi cày lần đầu, các bạn có biết, trâu bò
cũng quen với ngôn ngữ địa phương. Ở miền Trung từ Bình Định trở
vào, muốn bò quẹo trái thì gọi Thá, muốn bò quẹo phải thì gọi Dí,
muốn chúng dừng lại thì gọi Dò. Còn ở vùng Quảng Trị muốn quẹo trái
thì gọi Tắc, muốn quẹo phải thì dùng Rị, và muốn dừng lại thì dùng
Họ. Hôm đó mỗi người được phát một cặp bò và 1 cái cày, có một anh
người Quảng Trị cầm cày và cầm roi điều khiển bò, cứ dùng hết Tắc
rồi Rị, bò nó không biết đi đâu, nó quẹo lung tung. Bò đi mãi gần
đến bờ rào đụng nhà dân, anh la Họ….Họ….., bò vẫn đi, hoảng quá anh
la : “Stop, stop, stop”. May có vài anh em ra chận bò lại, chúng
tôi có dịp cười nghiêng ngửa. Khi anh chàng trở lại chúng tôi nói:
“Bò nó đâu có đến trường mà biết tiếng Anh, ông bạn.”
Những kỷ niệm đau khổ cũng như là hạnh phúc của con người đều có
giá trị ngang nhau trong tiềm thức, người ta khó mà quên được. Có
những ngày chúng tôi đi làm ruộng tại cánh đồng tên là Đầm Sen.
Cánh đồng đầm lầy bạt ngàn, bỏ hoang lâu ngày từ thời Pháp thuộc,
thật xa xôi và hẻo lánh, bèo lát, điên điển, cỏ dại mọc như rừng,
mỗi lần nhảy xuống ruộng, có chỗ sình ngập lên tới cổ. Và có những
đám ruộng nước đĩa ơi là đĩa….lội như bánh canh. Từ nhỏ tôi cũng
như nhiều anh em khác, nói chung môi trường sống là thành phố, nên
thấy đĩa rất là sợ. Lần đầu tiên nhảy xuống ruộng, thấy nhột nhột
nhảy lên, là một vài con bám chân bám đùi, máu chảy tùm lum…..Úi
trời ơi, thật là hãi hùng, bắt chúng xong lại nhảy xuống, vì nhảy
lên bờ thì AK chĩa vào đầu.
Ngày ấy làm ruộng về, mặc dù đói, nhưng cơm nuốt không nổi vì tinh
thần căng thẳng và hãi hùng quá mức. Mấy hôm sau, chúng tôi rút
kinh nghiệm, chọn bộ quần áo nào mới nhất, không có chỗ rách, bỏ áo
vào trong quần, cột hai ống chân cho chặt, cột quanh lưng, cột hai
khuỷu tay, nhờ thế mà khi nhảy xuống ruộng, thấy đĩa bơi quanh
người nhưng chúng không bám được, nhưng cũng có những trường hợp
ngoại lệ, chúng vào tận chỗ kín để cắn, về nhà máu me tùm lum phát
khiếp. Cũng có những chuyện vui đáng nhớ. Số là sau khi khai hoang
xong, những đám ruộng bùn quậy lên rất nhiều cá nên anh em tha hồ
bắt. Tôi thì chạm cá rất nhiều, nhưng chẳng bao giờ bắt được cả.
Bắt nó lên là nó vuột, bắt một tay cũng vuột, hai tay cũng không
xong. Chiều về hỏi mấy anh bạn chuyên nghiệp chỉ giùm cho một chiêu
làm sao để bắt mà nó không vuột. Anh bạn cười:
“Bắt cá cũng như đi cua gái vậy, khi đụng nó phải từ từ mò từ đuôi
lên tới đầu, khi vị trí của đầu nằm trong lòng bàn tay rồi, thì dịu
dàng nắm lại, thật chặt và thật êm thì không bao giờ bị mất cả”.
Thế là hôm sau theo cách chỉ dẫn của anh bạn, tôi được mấy bữa bồi
dưỡng ngon lành. Có những ngày làm cỏ ở những thửa ruộng cạn, chúng
tôi không tìm được thứ gì để ăn. Vài ba người, mỗi người vài chú
nhái, chiều về cải thiện, 1 vài con không đáng là bao, người nọ dồn
cho người kia để ăn cho đủ. Các bạn biết sao không? Cho thì tiếc,
bèn oảnh tù tì ai thắng thì ăn hết, ai thua thì nhịn. Ôi con người
khi tới tận cùng đất đen rồi thì mới nhận chân được giá trị của nó.
Chuyện đã 28 năm rồi, nhiều khi tôi nghĩ mình cũng nên quên đi để
sống những ngày còn lại của cuộc đời. Nhưng thỉnh thoảng quá khứ
lại hiện về, không sót một chi tiết nhỏ nào. Có những đêm ác mộng
hãi hùng, bị đánh, bị tra tấn và những cơn trốn chạy dưới lằn đạn
AK của chúng. Khi tỉnh dậy tinh thần bàng hoàng, đầu óc ngây ngô.
Và không biết đến bao giờ tâm trí mới được bình yên đây. Đọc qua
lịch sử biết bao sự hưng vong của chế độ Đinh, Lý, Trần,Lê….Biết
bao nhiêu thi nhân đã tiếc thương một thời quá khứ êm ấm, thanh
bình…..
Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương,
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Hay:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc.
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia…
(Bà Huyện Thanh Quan)
Hoặc:
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ây hồn Thục Đế thác bao giờ
Năm canh, máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc Xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ
Đêm đêm ròng rã kêu ai đó
Dục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ
(Nguyễn Khuyến)
Vận nước đã đổi thay, quê nhà chìm đắm trong cảnh bất công. Giới
thống trị thì vàng son rủng rỉnh, xe pháo dập dìu, người dân còn
lại phải vật lộn với cuộc sống đầy gian nan mới đủ cơm ngày hai
bữa, và còn phải lo thuốc thang khi đau yếu. Không hiểu tiền nhân
có đau khổ như chúng ta không? Nếu có thì chỉ có sự thay đổi thể
chế xã hội và đau nỗi mất nước, không đến nỗi phải lưu vong như
chúng ta, trên 15.000 dặm đường chim bay, xa hơn một nữa vòng trái
đất. Muốn tìm một chút tình cảm thân thương nơi cha, nơi mẹ, nơi
anh em, nơi bạn bè hay người thân thật là khó vô vàn. Thật là:
Đau lòng tử biệt sinh ly,
Muốn cho tái ngộ chỉ nhờ mộng trung….
Chúng ta đã may mắn thoát khỏi ách bạo tàn, dung thân ở xứ tự do.
Tuy không dễ, nhưng chúng ta có đầy đủ quyền tự do của một con
người được pháp luật bảo vệ. Quê nhà còn biết bao người thân đang
trầm luân với cuộc sống đoạ đầy và bất công, chỉ hy vọng chút tin
vui khi có con cái, hay anh em gửi về chút ít quà hay tiền để mạch
máu đang chảy không bị cạn….bởi một lũ vô thần, tham lam, ích kỷ và
tàn bạo…..
Với những dòng này, mong đóng góp chút ít tư liệu về cuộc chiến, và
những gương hy sinh của các Sĩ Quan QLVNCH, những anh hùng không
tên tuổi đã nằm xuống trong cuộc chiến, để giữ gìn miền Nam êm ấm
thanh bình gần 3 thập niên từ sau 1945-1975. Và để cho thế hệ sau
phân tích sự hy sinh gian khổ của cha ông. Và cũng mong quê hương
dân tộc sớm khỏi ách bạo tàn của một lũ người vô thần thống trị,và
mãi mãi thanh bình trong chiều hướng tự do dân chủ…..
Võ Đức Nhuận
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen