Source: Dòng Sông Cũ
Posted on: 2017-09-06
Giáo sư Robert F. Turner Trung tâm an Ninh Luật Pháp Quốc Gia Đại Học Luật Khoa Virginia & Học Viện Hải Quân. |
ôi là một sinh viên trong số tương đối ít ỏi đã thực tin rằng việc
chống Cộng sản xâm lược là việc đúng của Hoa kỳ ở Việt Nam, Lào,
Cambodia là đúng.
Tôi lần đầu đến Việt Nam trong một giai đoạn ngắn khi là phóng viên
năm 1968, rồi quay về đi lính, bắt đầu chức vụ Trung úy rồi sau lên
Đại úy rồi trở lại đó hai lần làm việc tại một bộ phận của toà Đại
sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, là Văn phòng Nghiên cứu về Bắc Việt và Việt
Cộng. Tôi có cơ hội được đi tới nhiều địa phận tại Việt nam, khoảng
44 tỉnh thành, có chỗ chỉ đi ngang qua. Tôi được qua Lào, Cambodia.
Sau khi giải ngũ tôi gia nhập Hoover Institution, tôi đã viết cuốn
sử quan trọng đầu tiên bằng tiếng Mỹ về “Cộng sản Việt Nam”
. Trong hơn hai chục năm, tôi đã có nhiều khóa giảng dạy tại viện
Đại học Virginia về Chiến tranh Việt Nam. Vì thời giờ có hạn, tôi
phải nói ngắn, nhưng trước khi đề cập tới chủ điểm của bải thuyết
trình, tôi xin có thêm một lời cảnh báo, nhất là với các khán thính
giả trẻ tuổi.
Rằng đa số lập luận “sáng suốt phổ biến” của người Mỹ về Chiến
tranh Việt Nam thật ra lại không đúng. Rất đáng tiếc rằng điều ấy
có nghĩa là đa số những gì được giảng dạy tại cấp trung và đại học
lại gần với thần thoại hơn là lịch sử. Tôi chi xin đơn cử hai thí
dụ, hai thí dụ quan trọng:
1- Ngày nay, chúng ta được nghe rằng cuộc chiến Việt Nam là “bất
khả thắng”. Chúng ta đứng sai chỗ. Tôi xin được góp tiếng bên cạnh
nhiều sử gia thuộc loại xuất sắc nhất ngày nay khi nêu lập luận
ngược rằng chúng ta không chỉ hy vọng thắng mà thực tế đã thắng vào
đầu thập niên 1970. (Và khi nói “chúng ta”, tôi không nghĩ rằng đấy
là Quân lực Hoa Kỳ mà là nỗ lực chung của hai quân đội miền Nam
Việt Nam và Hoa Kỳ cùng với người dân miền Nam).
2- Chuyện gì đã xảy ra? Khi tôi tuyên bố là có thể thắng. Tôi xin đưa câu nói của người bạn thân Douglas Pike: ông Douglas
Pike đã quá vãng, người mà tôi hoán đổi công vụ nhiều lần trong Sứ
quán Hoa Kỳ, ông Pike nói rằng: Tôi tin rằng chúng tôi có thể đã
thắng cuộc chiến Việt Nam. Tôi tin rằng trong tương lai lịch sử sẽ
nói rằng chúng ta đã thắng. Đó là sự thật.
Một số thí dụ sau đây sẽ chứng minh.
Có một bài viết trong báo Foreign Affairs năm 2004 do Giáo sư John
Lewis Gaddis Khoa trưởng Americạn Diplomatic Historians nói rằng:
Các sử gia hiện tại công nhận rằng miền Nam Việt Nam và đồng minh
đã thắng cuộc chiến quân sự. Nhưng lại thua cuộc chiến tâm lý tại
Mỹ. Tôi xin nhắc lại cho quý vị trẻ biết sau khi bị bỏ bom tơi bời,
Hà Nội vội vã trở lại đàm phán tại Paris. Và mọi chuyện êm xuôi nếu
chúng ta dùng máy bay B52 để trấn giữ hiệp định.
Nhưng quốc hội với áp lực của “Phong trào Hòa Bình” đã thông qua dự
luật vào tháng năm 1973. Sẽ là bất hợp pháp nếu Tổng Thống sử dụng
bất cứ đồng nào trong công quỹ cho cuộc chiến tại Việt Nam, Lào và
Cambodia. Làm như vậy, Quốc hội đã chuyển thắng thành bại. Quốc hội
phản bội lời cam kết lịch sử của Hoa Kỳ là bảo vệ các nước không
Cộng sản tại Đông Dương. Lúc ấy tôi làm việc tại Thượng nghị viện,
nghị sĩ Ted Kennedy tuyên bố rằng “Việt Nam không cần giúp đỡ, họ
đã có lượng vũ khí trị giá vô số triệu đô la”. Đó là sự thật. Việt
Nam có phi cơ trực thăng, xe tăng Hoa Kỳ. Nhưng cái mà họ không
biết là, Việt Nam không có đạn, không có xăng. không có phụ tùng.
Đống đồ đó trở nên vô dụng. Đây là câu chuyện tôi chưa bao giờ kể
cho ai nghe. Ngay sau khi sơ tán từ Việt Nam về tới Mỹ, tôi gặp
Nghị sĩ Ted Kennedy tại Thượng Nghị Viện. Đó là lần đầu tiên tôi
gặp ông ấy khi trở về
Mỹ.
Ông ấy đứng cách tôi khoảng 3 mét. Tôi cung tay phải lên và tự nhủ:
“mình phải cho nó biết tay, phải đấm gục hắn ta và nói chothế giới
biết rằng chúng tôi vừa mới phản bội chính danh dự của mình và bỏ
rơi những người đáng yêu.”
Ted Kennedy |
Nhưng tôi đã tự cản bản thân mình vì làm vậy sẽ ảnh hưởng đến cương
vị Nghị sĩ của tôi và Ted Kennedy sẽ trở thành người hùng. Không
phải là việc làm đúng đắn nhưng đôi lúc tôi nghĩ là mình đã bỏ rơi
cơ hội ấy.
Sau khi Quốc Hội cắt hết viện trợ cho Việt Nam, Trung cộng gia tăng
viện trợ cho Hà Nội. Phạm Văn Đồng nói rằng: “Được cho kẹo tụi nó
cũng không dám quay lại”. Đó là lý do của sự thất bại tại chiến
trường Việt Nam.
Quân nhân Mỹ, QLVNCH, và miền Nam Việt Nam không bị bại trận, mà
thua vì cái gọi là “tự do” của Quốc hội Hoa Kỳ.
Điềm thứ 2 tôi muốn đưa lên là: Việt Nam rất quan trọng. Họ cho
rằng Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến “phi lý” tiến hành không lý
do chính đáng, do hiểu lầm về vụ đụng độ không đáng kể ở Vịnh Bắc
Bộ. Thật sự là ngớ ngẩn.
Tôi đã viết 450 trang trình bày trong luận án đạt giải danh dự năm
1966. Tôi đã ghi lại vào tháng Năm 1975 đảng Lao động của Cộng sản
Việt Nam đã quyết định từ Tháng Năm năm 1959 là mở ra đường mòn Hổ
Chí Minh và gửi vào Nam nhiều ngàn lính và vô số chiến cụ với mục
đích lật đổ chính phủ trong Nam. Đây là hành động xâm lược quốc tế
và vi phạm Hiên chương Liên hiệp quốc. Hoa Kỳ tham chiền để giúp
người dân miền Nam tự vệ vì cùng một lý do như việc chúng ta tham
chiến tại Cao Ly, nhằm bảo vệ tự do của con người và thực thi việc
chống xâm lược đã được ghi trong Hiến chương Liên hiệp quốc.
Trong cuốn sách “Cộng sản Việt Nam” xuất bản năm 1975, Hà Nội đã
nhiều lần xác nhận sự thực đó từ Tháng Năm năm 1959 ngay ngày sinh
nhật Hồ Chí Minh. 10 năm trước, chúng tôi đã thảo luận tại Đại học
Luật Virginia về vấn đề hợp pháp này. Luật quốc tế và Hiến chương
Liên hiệp. Không thể thảo luận nổi vì Hà Nội lập luận rằng đó là
nội chiến trong miền Nam VN v.v… hãy bỏ qua 1 số điểm vì thời gian
có hạn.
Tôi nêu lên hậu quả của việc bỏ rơi VN.
Tôi có thể nói hoài về việc người Mỹ bỏ rơi Việt Nam. Tôi là người
đứng ngay trong trận khi Quốc Hội biểu quyết không giúp đỡ Angola
vì sự xâm lăng của Xô Viết. Kết quả nạn nhân bị tử vong ở đấy được
ước lượng là không dưới trăm ngàn người.
Đến việc Liên Xô xâm chiếm Afghanistan khiến cả triệu người chết.
Sẽ không xảy ra nếu chúng ta không rút lui.
Và lần đầu tiên trong sáu chục năm, Moscow bảo với tay sai của họ ở
Mỹ châu La Tinh rằng tiến hành “đấu tranh võ trang” để cướp chính
quyền thì cũng được, từ đấy mới xảy ra nội chiến tại El Salvador,
Nicaragua, Honduras, Guatemala, Costa Rica và các nước khác trong
vùng. Vô số người lại thiệt mạng vì chuyện đó. Một số lớn súng M16
tịch thu được từ quân phiến loạn El Salvador, căn cứ theo số xê ri
là súng bỏ lại tại chiến tranh VN của quân đội Mỹ. Hà Nội đã cung
cấp cùng với Xô Viết qua đường Cuba rồi đưa lậu qua El Salvador.
Cho những người nói chiến tranh VN là phi lý. Họ đã sai.
Nhưng hôm nay tôi không muốn tập trung về các vấn đề dù rất quan
trọng là địa dư chiến lược. Tôi muốn nói về hậu quả của quyết đinh
của Hoa Kỳ đối với con người. “Phong trào hòa bình” – của phe phản
chiến – trấn an chúng ta rằng Hoa Kỳ chỉ cần rút quân và chấm dứt
chiến tranh thì mình sẽ phát huy “nhân quyền” và “ngăn nạn tàn
sát”. Tôi rất ngại nói về những gì xảy ra tại Việt Nam sau khi Hoa
Kỳ triệt thoái, vì trong hội trường này và tại khu “Little Sàigon”
có nhiều người đã trực tiếp nếm mùi và biết rõ hơn những gì mà mọi
“học giả” Mỹ có thể muốn biết. Nhưng có một số sự thật thì đã rõ
ràng.
Hãy trước tiên nói về nhân quyền. Tháng Tư năm 1975, khi sự chiến
thắng của Cộng sản đã thành hiển nhiên cho mọi người, Đệ nhất Bí
thư đảng Lao Động là Lê Duẩn đã tuyên bố rằng: sau khi “giải phóng”
Miền Nam, chúng ta sẽ biến nhà tù thành trường học”. Tới Tháng 10
năm 1978, nhật báo Times đầy uy tín tại Luân Đôn đã báo cáo sự
thật: Cộng sản Việt Nam đã biến nhà trường và cô nhi viện thành nhà
tù vì họ có quá nhiều tù nhân.
Điều 11 của Hiệp định Paris ký kết năm 1973 cấm “mọi hành vi trả
thù hay kỳ thị các cá nhân hay tổ chức đã hợp tác với một phe bên
này hay bên kia”, và còn rõ ràng bảo đảm quyền tự do báo chí, tôn
giáo, tự do sinh hoạt chính trị và một loạt những quyền thiêng
liêng khác. Vậy mà Tháng Năm năm 1977, tờ Quân đội Nhân dân công
khai thông báo “triệt để cấm mọi hành vi chống lại chế độ và tước hết mọi quyền tự
do của những kẻ không tin vào xã hội chủ nghĩa”. Bài báo tuyên bố: “Với bọn phản cách mạng… nhân dân ta dứt khoát xoá bỏ quyền tự do
ngôn luận và trừng phạt đích đáng”.
Sau đó, một dân biểu duy nhất của Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa được
phép tham gia cái gọi là “Quốc hội Thống nhất” đã tuyên bố: Chế độ
mới cai tri bằng bạo lực và khủng bố. Không có tự do di chuyển hay
lập hội; không có tự do báo chí hay tự do tôn giáo hay… cả quyền tự
do có ý kiến riêng… Sự sợ hãi tràn ngập khắp nơi”
QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ
Tháng Chín năm 1970, Trưởng phòng Sài Gòn của tờ Christian Science
Monitor là Daniel Sutherland- ông bạn của tôi vào thời ấy – có viết
một bài dài về “quyền tự do báo chí” trong Nam. Ông viết: “Dưới bộ
luật báo chí mới, Miền Nam bây giờ có một nền báo chí thuộc loại tự
do nhất Đông Nam Á…”. Tôi tin chắc rằng mình không là người duy
nhất trong hội trường này có thề xác nhận điều ấy. Riêng Sài Gòn
thì đã có hơn ba chục tờ báo, và nhiều tờ trong số đó kịch liệt
chống chính phủ.
Dĩ nhiên là để thu thập dữ kiện về quyền tụ do ấy, tôi thường cầm
máy ảnh lang thang trong Sài Gòn vào những chiều Chủ Nhật được
nghỉ. Tôi thấy bày bán công khai những quyển sách như “Chiến tranh
Nhân dân và Quân đội Nhân dân” của Tướng Võ Nguyên Giáp là cuốn chỉ
nam về nổi dậy của Việt Cộng, vài cuốn của lãnh tụ cộng sản Cuba là
Ché Guevarra, và cả các cuốn sách về cái tốt của Mao Trạch Đông.
Sau ngày gọi là “giải phóng”, người Cộng sản chiếm đóng đã “tạm
thời” đình chỉ xuất bản mọi tờ báo hay tạp chí độc lập. Chưa đầy
một tháng sau, mọi tiệm sách báo đều bị đóng cửa và việc mua bán
hay tàng trữ các văn hoá phầm xuất hiện “dưới chế độ cũ!” đều bị
cấm.
TÙ CHÍNH TRỊ
Một trong các vấn đề nặng nề nhất là những người chống Việt Nam
thường nêu ra, là cái gọi là “chế độ phát xít” tại miền Nam đã giam
giữ hơn 200 ngàn “từ chính trị”. Khi trở lại Đông Dương vào Tháng
Năm 1974 – cũng là dịp thăm viếng Cam Bốt và Lào – tôi chú trọng
đến việc điều tra những lời cáo giác trên.
Tôi ghé thăm Linh mục Chân Tín, nổi danh lãnh tụ của “lực lượng thứ
ba” nhưng có lẽ là một cán bộ của Hà Nội. Tôi hỏi ông là tìm đâu ra
con số “200 ngàn tù nhân chính trị?” Ông ta bảo rằng mình đã hỏi
các tù nhân cũ và gia đình thân nhân của họ là họ nghĩ xem có bao
nhiêu tù nhân. (Tôi nghi là họ đã cộng lại tổng số của các câu trả
lời). Sự thật thì thời đó chỉ có khoảng 35 ngàn tù nhân trong tất
cả các nhà tù của Miền Nam.
Robert Kennedy bị ám sát |
Rồi còn vụ “chuồng cọp” đầy tai tiếng tại Côn Sơn, được họ mô tả
như sau: , "… xà lim chôn dưới mặt đất với các đống sắt, đồng trên
trần thay vì ở dưới. Mà trần xây thấp đến nỗi tù nhân không thể
đứng được …”
."… những hố nhỏ được đào dưới đất và che bằng chấn song sắt.”
– “[Mấy hầm đó] quá hẹp cho những người Việt Nam dù thấp bé cũng
không thể nằm duỗi thẳng và trần quá thấp nên tù nhân khó có thể
đứng thẳng người”. Thật ra, tôi có đến đảo Côn Sơn và thăm những
chuồng cọp này. Tôi nghĩ rằng chúng ta cùng đồng ý là tôi hơi cao
hơn đa số người Việt Nam. Vậy mà tôi chưa thể với tới các chấn song
trên trần – vốn cao tới ba thước (khoảng 10 bộ) kể từ mặt đất lên.
Ngay cả lực sĩ Nghiêu Minh (Yao Minh) người Tầu – tay trung phong
của đội bóng rổ Rocket’s ở Houston bên Texas – cũng chỉ cao tới bảy
bộ và sáu phân – hơn hai thước hai – nên anh ta cũng chẳng gặp khó
khăn gì đề duỗi dài trong căn xà lim một bề thước rưỡi một bề ba
thước của cái gọi lả “chuồng cọp”.
Ít nhất, một số cán bộ chống Việt Nam đã từng cáo giác chuyện
“chuồng cọp” biết là họ nói láo. Trước khi qua Việt Nam năm 1974, tôi nói với một người trong số
này rằng tôi dự tính sẽ tới nhà tù Côn Sơn để tự minh xem tận mắt và anh ta có vẻ khó chịu – có lẽ biết rằng tôi sẽ thấy sự thật. Anh ta nói rằng vấn đề thật bây giờ chính là tại nhà tù Chí Hòa ở
Sài Gòn.
Vì vậy sau khi thăm Côn Sơn, tôi xin phép vào xem nhà tù Chí Hòa và
chưa đầy 48 tiếng sau đã được tới đó trong mấy tiếng đồng hồ. Đây
không là nơi mà mình thích sống nhưng cũng chẳng tệ hơn đa số các
nhà tù và bên trong tôi không thấy dấu vết gì của những sự lạm dụng
phổ biến. Tôi nói riêng với vài người Mỹ đã từng ở trong này và họ
nói rằng dù có nghe nhiều lời tố cáo nhưng tất cả đều cho biết là
họ không hề nghe thấy “tiếng gào thét trong đêm vắng” hoặc được báo
cáo về nạn tra tấn hay hành hạ tù nhân.
NGĂN CHẬN TÀN SÁT
Bi thảm nhất của những người chống Việt Nam là lý luận của họ, rằng
cắt viện trợ cho Miền Nam là Hoa Kỳ sẽ “ngăn được nạn tàn sát”. Họ
sai lầm tới chừng nào. Ông bạn Giáo sư R.J. Rummel của tôi (một
người từng được tuyển liên tiếp cho giải Nobel Hòa Bình) ước lượng
là tổng số người bị giết sau khi miền Nam được “giải phóng” lên tới
643 ngàn.
– Khoảng 100 ngàn bị xừ tử qua quít ngay sau khi Cộng sản nắm
quyền. Qua quít vì cũng chẳng có một hình thức tạm bợ về “tiến
trình hợp pháp” hay một toà án.
– Giáo sư Rummel cho là 400 ngàn là “thuyền nhân” bị chết ngoài
biển cả khi muốn thoát khỏi chê độ độc tài và đàn áp đã trùm lên
quê hương. Cao ủy Ty nạn của Liên hiệp quốc thì cho là một phần ba
những người vượt biên bằng thuyền đã chết ngoài biển – một số là vì
tầu quá đông người bị chìm, hoặc chết vì đói, vì khát. Nhiều người
tử nạn sau khi bị hải tặc cướp bóc và cưỡng hiếp. Cao ủy cũng tường
trình rằng có khoảng 840 ngàn người tới được Hong Kong hay các nước
không Cộng sản ở Đông Nam Á. Nếu áp dụng tỷ số “chết một phần ba”
cho con số này thì ta đoán là có một triệu 300 ngàn người vượt biên
bằng thuyền và khoảng 420 ngàn người đã chết trên đường tìm tự do.
Con số không xa với ước lượng của Giáo sư Rummel.
Giáo sư Lewia Sorley, tác giả cuốn sách có giá trị của một dấu mốc
là “A Better War” – một Cuộc Chiến Khá Hơn – mà tôi ân cần giới
thiệu đến quý vị, cho rằng có chừng 250 ngàn sĩ quan và binh lính
của miền Nam cũ đã chết trong các “Trại Cải Tạo” do chế độ Cộng sản
lập ra.
– Khoảng một triệu rưởi người dân miền Nam bị đày vào các khu “Kinh
Tế Mới” để sống trong những điều kiện nghiệt ngã và chừng 48 ngàn
đã chết tại đấy. Tôi biết rằng rất đông người trong cộng đồng này
có thể kể lại những kinh nghiệm thật về “Trại Cải Tạo” và khu “Kinh
Tế Mới” và khuyên các sinh viên ở đây nên tìm ra họ, ghi nhận câu
chuyện của họ để làm chứng liệu cho lịch sử.
CĂM BỐT
Và còn chuyện xứ Căm Bốt nữa. Khi Tổng thống Nixon gửi quân đội Hoa
Kỳ sang Cam Bốt vào năm 1970 đề yêm trợ các đơn vị Việt Nam Cộng
Hòa, khuôn viên các Đại học Mỹ bị đóng vì những cuộc phản đối đầy
bạo động chống lại vụ xâm lược “phi pháp”. Thật ra, về pháp lý thì
y như Việt Nam, Căm Bốt là “quốc gia thành viên của Nghị định thư”
– Protocole States – đã được cam kết bảo vệ chống Cộng sản xâm lăng
trong khuôn khổ Hiệp ước SEATO năm 1954. Mười năm sau, và với tỷ lệ
đầu phiếu là 99,6%, khi Quốc hội Hoa Kỳ cho phép Tổng thống Johnson
tham chiến tại Đông Dương. quy chế ấy hoàn toàn có thể áp dụng cho
Căm Bốt như cho Việt Nam và Lào. Nghị quyết ấy của Quốc hội chỉ cần
dẫn chiếu “Protocole States” của hiệp ước SEATO (South East Asia
Treaty Organization). Tôi thăm viếng Căm Bốt nhiều lần trong năm
1974 và trong nhiều năm đã viết về Khờme Đỏ.
Thời ấy, việc họ là những kẻ sắt máu có dự tính tàn sát không tưởng
tượng nỗi với đồng bào Khờme của họ thật ra chẳng còn là bí mật. Và
dĩ nhiên, khi tôi trở lại Việt Nam vào Tháng Tư năm 1975, một trong
những mục tiêu chính của tôi là đễ cố gắng cứu lấy đám trẻ cô nhi
tại Căm Bốt. Tôi đến quá trễ và có lẽ những đứa trẻ tôi hy vọng cứu
được chắc là đã chết.
Không hề có một cuộc khảo sát dân số tại Căm Bốt và chẳng ai biết
thực sự có bao nhiêu người đã sống tại nơi ấy. Con số ước đoán về
nạn nhân có những dị biệt lớn, với một số chuyên gia thì cho lả có
hơn hai triệu. Tài liệu khảo cứu khá nhất mà tôi được đọc là của
Đại học Yale, nơi mà Chương trình của Yale về nạn Diệt chủng Căm
Bốt ước tính là Pol Pot và bọn đao phủ của hắn đã thảm sát một
triệu bảy trăm ngàn người – hơn 20% dân số toàn quốc.
Một bài báo về “các vùng thảm sát” của Căm Bốt trên tạp chí
National Geographic Today trong số tháng Giêng năm 2004 cho chúng
ta những chi tiết này: “Nhân viên hướng dẫn giải thích rằng đạn quá
quý để dùng cho việc tàn sát. Rìu, dao và gậy tre thật đắc dụng
hơn. Còn về trẻ em thì bọn đồ tể chỉ đơn giản quật chúng vào thân
cây”.
Ông Douglas Pike đã quá vãng, người mà tôi hoán đỗi công vụ nhiều
lần trong Sứ quán Hoa Kỳ, có viết như sau về hậu quả nhân sinh của
việc Hoa Kỳ bội ước sự cam kết của mình là sẽ bảo vệ người dân của
các nước không cộng sản ở Đông Dương: “Dù có ước lượng dè dặt nhất,
thường dân Đông Dương bi bạo sát sau Chiến tranh Việt Nam nhiều hơn
là tổng số nạn nhân chết trong thời chiến, ít ra là hơn hai triệu…
Nỗi khổ đau lên tới mức chưa từng thấy, còn thê thảm hơn những ngày
chinh chiến”.
Thật bi đát vì tôi nghĩ rằng ông Pike có lý. Và tôi lại càng tin
rằng cộng đồng tại đây, đôi khi ngay trong hội trường, có những
người có thể cung cấp những dữ kiện trực kiến về thảm kịch nếu như
ta muốn tìm đến họ và ghi nhận lời chứng của họ. Việc này thì chẳng
ai có tâm trí bình thường lại thích làm, nhưng là điều mà những ai
muốn truy lùng sự thật tới cùng vẫn có nhiệm vụ thực hiện. Chúng ta
phải kể lại chuyện này – một cách chính xác và cẩn trọng – để người
khác sẽ biết rất lâu về sau, khi các nhân chứng cuối cùng không còn
tại thế nữa. Chúng ta phải kể lại, nếu không chuyện đó sẽ lại tái
diễn.
Những ai thấy bàng hoàng về những chuyện đã xảy ra khi Cộng sản
khống chế người dân Miền Nam và của Căm Bốt hay Lào thật ra không
hiểu gì về lịch sử hiện đại. Nếu quý vị muốn biết rõ hơn về thảm
kịch, tôi xin đề nghị tập sách do nhà Harvard University Press xuất
bản có tên là “The Black Book of Communism” – Cuốn Hắc thư về Chủ
nghĩa Cộng sản. Do một nhóm trí thức Âu Châu thuộc khuynh hướng
trung tả biên soạn, cuốn sách kết luận là trong thế kỷ 20, chủ
nghĩa cộng sản quốc tế đã gây ra cái chết cho từ 80 đến 100 triệu
sinh linh.
Những ai muốn biết sâu xa hơn về Chiến tranh Việt Nam có thể còn bị
lầm lạc lớn nếu không chịu khó tìm đọc các cuốn sách do chư vị diễn
giả nơi đây hoặc bằng hữu của chúng tôi đã biên soạn.
Đây là một vinh dự cho tôi khi được thuyết trình trước một cử toạ
quan trọng như hôm nay và trong cơ hội long trọng này. Với những
người giận dữ về sự bội phản của nước tôi 35 năm về trước, xin cho
tôi được nói rằng sự giận dữ này cũng là sự giận dữ của bản thận
tôi. Tôi yêu quý Hoa Kỳ và tin rằng đây là một xứ tuyệt vời nhất
trên địa cầu. Nhưng khi đa số của Quốc hội phản bội nạn nhân của
Cộng sản xâm lược, họ cũng phản bội 58 ngàn 200 lính Bộ binh, Hải
quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã dâng hiến mạng sống trong sự
hy sinh cao quý nhất cho chính nghĩa này. Họ cũng phản bội sự hy
sinh của hai triệu bảy trăm ngàn người Mỹ đã từng phục vụ tại Việt
Nam từ năm 1959 cho đến 1975.
Chúng ta không cải sửa được điều ác đã xảy ra. Nhưng chúng ta có
thể nghiên cứu nó và có thể hành động để người Mỹ chúng ta lánh xa
truyện thần thoại sai lạc mà hiểu rõ thảm kịch lớn lao của sự bội
tín. Tôi thiết tha kêu gọi giới trẻ trong cử toạ nơi đây là hãy tự
nguyện giành một chút cố gắng để học hỏi trang sử này và chịa sẻ
với người khác. Quan trọng nhất, hãy chú ý đến các cựu chiến binh
và những người sống sót trong cộng đồng, hãy ghi lại lời kể của họ
khi mình còn cơ hội. Nếu mình làm được như vậy thì may ra những hy
sinh lớn lao của thảm kịch bi đát này sẽ không bị uổng phí.
Xin cảm tạ quý vị và cầu xin Thượng Đế sẽ phù hộ chúng ta ./
----------
__._,_.___
Posted by: Dan Vo <viettrung1930@sbcglobal.net>
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen