Thi sĩ Hữu Loan (1916-2010)
Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp
sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho
dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư
chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung
tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.
Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú
tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt
nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng
biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi
đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời
còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi ,
Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và …tôi – Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất
tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác
áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn
lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: “Em chào thầy ạ!” Chào xong,
cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen
láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo
tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê
Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong
ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng
ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt
em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm
chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh
mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ
trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng
giặt …..
Có lần tôi kể chuyện “bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em
Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một
tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một
hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy
tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều,
đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn
một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em
nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý:
“Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định
đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông
bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như
một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi
xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em. Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu,
chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân
trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
– Thầy có thích ăn sim không ?
– Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi
xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ…
Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim.
Những quả sim đen láy chín mọng.
– Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:
– Ngọt quá.
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối
với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những
quả sim ngọt đến thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa
khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng
đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em
cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can
thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn
tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi…
lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong
manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy
trả và lầm lũi đi… Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó … Tôi
lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa…
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ
quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè
kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu
hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ…
Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở
đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn
lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng
bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp….
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ
đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi
thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm “soạn kịch bản”. Một tuần sau
đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không
đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: “yêu nhau, thương
nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo,
học giỏi, Làm thơ hay… lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh
chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông
Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm
mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh
phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên
đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm
tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em
đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời
yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại… Nếu như chín
năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này,
tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật
thảm thương – Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa
quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì
muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối!
Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng
tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần
60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.
Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết
để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái
xác không hồn… Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn.
May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ
nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được
bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng
đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng
cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà
nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói.
Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương,
viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh
Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những
năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày
2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi
tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga
Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn
trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím.
Cho nên tôi viết mới nổi những câu: “Chiều hành quân, qua những đồi
sim… Những đồi sim, những đồi hoa sim… Những đồi hoa sim dài trong
chiều không hết… Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt… Và
chiều hoang tím có chiều hoang biết… Chiều hoang tim tím thêm màu
da diết.”
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội,
từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi “hay
cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”.
Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ
kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của
tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!
Đó là thời năm 1955 – 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với
sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài,
đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm
ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì
phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống
mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc
bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi
khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc
đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng… Y như trong
thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn
một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông… Tôi thấy đau
xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.
Tôi phản động ở chổ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại
không được khóc?
Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ
mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan,
về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi
không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi
phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe
tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một
bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để
đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh
bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ
theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người
hại tôi… Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ
của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với
tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường
đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ
nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một
vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy
cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ
đến độ không có chiếc chiếu để nằm!
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi
cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn
sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất,
đấu tố địa chủ năm 1954, 1955.
Lúc đó tôi còn là chính trị viên
của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có
học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không
còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một
xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây
số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư
điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu
nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường
cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng
phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt
anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư
đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Thế rồi, một
hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị
đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn
xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi
qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị
xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội
Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách.
Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ,
nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân
chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ
ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước
kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình
ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa
sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.
Lúc gần tới xã, tôi
gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom
nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ
rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước
mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt
hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói
rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói
lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm
bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ
rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm,
lấy cô làm vợ. Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc
đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương
chịu khó, bữa đói bữa no… Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người
con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! Trong mấy chục
năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày
ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng
Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ,
thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở
cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia
nhập làm gì. Năm 1988, tôi “tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn
và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần
một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và
tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí –
xuất bản và đổi mới thực sự. Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm
2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím
Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức
bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ
thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng,
tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích
một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ
này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ
khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.
Hữu Loan
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen