Trần Trung Đạo (Danlambao) - Nhìn bức tượng Hồ Chí Minh ngồi chễm chệ giữa chánh điện,
xem buổi lễ mừng sinh nhật của họ Hồ cùng lúc với Đức Thế Tôn thị
hiện, đọc những lời nịnh bợ đảng CS một cách trơ trẻn của các lãnh
đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”, một người Phật tử có chút nhận
thức nào cũng không khỏi lấy làm hổ thẹn trước tình trạng tha hóa
trầm trọng của hàng ngũ lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”.
Đọc lại lịch sử đạo Phật sau khi Đức Bổn Sư nhập diệt để lần nữa
nhận ra "Phật Giáo Việt Nam" đang suy tàn tương tự.
Vườn Lộc Uyển (Sarnath) là một trong những Phật tích thiêng liêng
nhất của đạo Phật vì đó là nơi Đức Bổn Sư đã giảng những bài pháp
đầu tiên dẫn tới thời cực thịnh của Phật Giáo Ấn Độ cho đến thế kỷ
thứ bảy, nhưng sau đó Phật Giáo Ấn Độ suy tàn. Ngày nay, di tích
Vườn Lộc Uyển chỉ là những đống gạch vụn trong ý nghĩa tinh thần
lẫn vật chất. Hàng loạt lý do dẫn tới sự suy tàn của Phật Giáo
trong đó có vai trò của đạo Bà La Môn, sự tàn sát của đạo quân Hồi
Giáo nhưng một trong những lý do mà chính Đức Đạt Lai Lạt Ma và
nhiều học giả Phật Giáo đồng ý đó là sự thoái hóa và biến chất của
hàng tăng sĩ Phật Giáo thời đó.
Trong tiểu luận Vì sao Phật Giáo suy tàn tại Ấn Độ của nhà nghiên cứu Phật Giáo D.C. Ahir (1928-2012) đã
viết: “Chúng ta phải thừa nhận rằng chính những tín đồ Phật Giáo lãnh
phần trách nhiệm lớn cho số phận đáng buồn của tôn giáo của họ...
Ðức Phật là một vị thầy tôn giáo đầu tiên ở Ấn Ðộ, hay nói đúng hơn
là toàn thế giới, cổ vũ những đệ tử của mình đi và đi khắp nơi vì
hạnh phúc và lợi ích của nhiều người... Nhưng bất hạnh thay, các
tăng sĩ về sau đã không giữ những tiêu chuẩn dành cho họ. Khi các
tu viện trở nên giàu có, thì hoạt động chính của họ được coi là đào
sâu việc nghiên cứu từ chương thay vì truyền bá Giáo Pháp, tăng sĩ
đánh mất sự giao hảo gần gũi với quần chúng, và tương quan giữa
tăng sĩ và cư sĩ bị thụt lùi. Các vị Tỳ Kheo trở nên xao lãng và
thụ động đối với những mục đích thực tiễn. Ðiều nầy làm cho Phật
Giáo suy yếu.”
Đức Đại Lạt Ma, qua tác phẩm Câu chuyện Tây Tạng: Những cuộc trò chuyện với Đức Dalai Lama (The
Story of Tibet: Conversations with the Dalai Lama)của Thomas C. Laird, cũng đã giải thích một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến sự suy tàn của Phật Giáo là từ các lý do nội tại Phật
Giáo: “Tôi nghĩ rằng trong trường hợp Tây Tạng cũng thế, y hệt như trường
hợp Ấn Độ, có xu hướng xem xét những nguyên nhân bên ngoài. Khuynh
hướng xem xét trước tiên những tác động ngoại lai đã mọc rễ sâu
trong đầu con người và khó loại bỏ. Chúng ta chẳng thể làm được gì
nhiều về những người khác, về những tác động ngoại lai. Nhưng chính
chúng ta, nếu chúng ta không tu hành tốt, không giữ gìn giới luật,
thì tôn giáo chúng ta trở thành giả dối. Đây là sự thật. Vậy đây
đúng là lịch sử Phật giáo tại Ấn Độ và Tây Tạng”.
Trong tam bảo Phật, Pháp, Tăng, Tăng là những vị mang giáo pháp của
Đức Phật đến với con người và do đó Tăng sĩ cũng là những vị trực
tiếp có ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực đối với tầng lớp cư sĩ
Phật Tử. Trong suốt bốn mươi lăm năm gieo rắc hạt giống từ bi, Đức
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni dành chuyến hoằng pháp cuối cùng từ thành
Vương Xá đến xứ Kusinara để nhắc nhở ba điểm bất di bất dịch của
một tu sĩ Phật Giáo: Giới, Định, Huệ. Đi tu để cầu giải thoát cho
mình và cứu độ cho đời. Người Phật tử kính trọng tăng không phải
chỉ vì chiếc y các thầy đắp mà còn vì hạnh nguyện cao cả các thầy
đã chọn.
Từ khi được đảng CSVN thành lập ngày 7 tháng 11 năm 1981 tại chùa
Quán Sứ Hà Nội và được xếp vào một trong 37 thành viên của Mặt Trận
Tổ Quốc Việt Nam, “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” chỉ là một đoàn thể
xã hội giống như các đoàn thể khác trong mặt trận như Hội Người cao
tuổi Việt Nam, Hội Châm cứu Việt Nam, Hội nghề cá Việt Nam, Hội Làm
vườn Việt Nam, Hội kế hoạch hóa gia đình Việt Nam v.v... Một tôn
giáo có lịch sử hai ngàn năm truyền thừa và đã đóng góp một phần
không nhỏ cho mảnh đất hình chữ S này còn tồn tại trên bản đồ thế
giới, được đặt vào vị trí ngang hàng với một hội làm vườn, cắt cỏ
nhưng không một lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” nào phàn nàn
hay thắc mắc.
"Huân chương Hồ Chí Minh"
Sự tuân phục, phụ thuộc của hàng ngũ lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam” vào đảng CS trầm trọng đến mức nhiều văn kiện từ một bài
văn, bài báo bình thường cho đến đạo từ quan trọng nhân đại lễ Phật
Đản của Pháp Chủ tối cao cũng không quên dành một phần lớn để ca
ngợi công ơn cao dày của đảng CS. Đạo từ của Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”
công bố nhân mùa Phật Đản Phật Lịch 2556, tháng 5 năm 2012 là một
bằng chứng.
Thông điệp Phật Đản lẽ ra là một dịp để nhắc đến công ơn của Đức
Phật đã thị hiện trên thế gian để cứu vớt chúng sinh bị đắm chìm
trong ô trược, soi rọi ánh sáng từ bi trí tuệ vào nhận thức con
người đang lạc loài trong tăm tối vô minh, khơi mạch suối tình
thương chảy vào thung lũng hận thù giết chóc. Nhưng không, Đạo từ
của Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ, vỏn vẹn chỉ một trang nhưng phân đoạn
dài nhất được dành để ghi ơn Đảng Cộng Sản Việt Nam trao tặng cho
giáo hội “huân chương Hồ Chí Minh”, các huân chương và bằng khen
khác:
“…Trong suốt 30 năm xây dựng và phát triển, Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử
các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu
Phật sự trên tất cả các lĩnh vực Đạo pháp và Dân tộc cũng như quan
hệ đối ngoại Phật sự quốc tế; được Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và cộng đồng xã hội đánh giá cao vị thế của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam. Nhân dịp này, Đảng và Nhà nước đã quyết định trao
tặng Huân Chương Hồ Chí Minh lần thứ hai cho Giáo hội, cùng một số
chư Tôn đức, Cư sỹ, Phật tử có nhiều thành tựu Phật sự ích đời lợi
đạo đã được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập,
Huân chương Đại đoàn kết Dân tộc, Bằng khen của Thủ Tướng Chính Phủ
và Chính quyền các cấp. Đây là minh chứng ghi nhận những đóng góp
to lớn của giới Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam
đối với sự nghiệp Cách mạng của Đảng và của Dân tộc.”
Huân chương để làm gì?
Bằng khen để làm gì?
Là tu sĩ, có gì cao quý hơn vinh dự được mang họ Thích, được đắp y
truyền thừa của Phật, được nương tựa vào Chánh Pháp. Danh lợi,
quyền lực là một trong những giới cấm tối quan trọng của một bậc
xuất gia.
Điều mỉa mai hơn, đạo từ nhằm đề cao danh lợi, đánh bóng quyền lực
của một đảng vô thần lại được công bố đúng trong ngày một bậc thánh
nhân ra đời chỉ để rồi 29 năm sau từ bỏ mọi quyền uy bậc nhất dành
cho ngài, rời cung vàng điện ngọc, cắt mái tóc Đông cung Thái tử
trả lại vua cha, khoác lên người một mảnh áo vàng và đi bằng đôi
chân đất vào lòng thế gian đau khổ. Hai ngàn năm trăm năm từ ngày
đại nguyện đó, trên đất nước Việt Nam có những kẻ tự nhận là con
Phật, chọn ngày sinh của ngài để vinh danh, ca ngợi tầng lớp cai
trị đang chà đạp lên những quyền căn bản của con người mà đức Phật
đã dành 45 năm để hoằng dương giá trị. Một câu cũng đảng, hai câu
cũng đảng, không một dòng nào trong đạo từ nhắc đến ý nghĩa sự ra
đời của Thái tử Tất Đạt Đa và bảy bước đi trên bảy đóa sen màu
nhiệm.
Sự suy thoái của Phật Giáo từ cuối thời nhà Trần như cố Đại Lão Hòa
Thượng Thích Thiện Hoa viết trong Lịch sử Phật Giáo Việt Nam không chỉ là một bằng chứng mà còn là bài học:
“Thế mà Ðạo Phật trong đời nhà Trần, chỉ thịnh phát trong khoảng 50
năm đầu, rồi dừng lại và thoái bộ mãi. Vì hai lý do làm cho Ðạo
Phật không thể tiến phát được là ở bên ngoài, sự cạnh tranh ráo
riết, có nhiều khi là cả một sự đàn áp của Khổng-Giáo; và ở bên
trong, giáo lý Ðạo Phật dần dần bị xen lẫn mê tín, dị đoan của
những tà giáo, ngoại đạo mà các vua chúa trong đời nhà Trần rất
sùng mộ.”
Hôm nay, một lần nữa, các lãnh đạo "Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam"
thỏa hiệp với giới cai trị và biến đạo Phật thành một loại tà đạo
mê tín dị đoan.
Tượng Hồ Chính Minh trên chánh điện Phật
Đặc tính tà đạo thể hiện qua cách chư tăng giáo phẩm đắp đại y và
lạy trước tượng Hồ Chí Minh, một kẻ can tội diệt chủng qua cái chết
của hàng ngàn người dân vô tội trong Cải cách Ruộng đất vô cùng bất
nhân ở miền Bắc, cho cái chết thảm thương của nhiều ngàn dân Huế
trong Tết Mậu Thân và cho sinh mạng của ba triệu người Việt trong
suốt hai mươi mốt năm chiến tranh cưỡng chiếm miền Nam bằng bạo
lực.
Về mặt giới luật, lạy một người chết, dù là ảnh, tượng, hay xác
cũng phạm giới. Một tăng sĩ lạy cha mẹ ba lạy để đền đáp ơn sinh
thành dưỡng dục khi xin phép xuất gia. Sau khi được cha mẹ đồng ý
và đã làm lễ thí phát, tăng sĩ Phật Giáo không lạy người chết nữa
dù người đó là ai. Những giới luật căn bản như thế, các tăng sĩ
Phật Giáo chắc chắn đã học qua và được dạy phải sống đúng với giới
luật. Các lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam dĩ nhiên biết rõ nhưng miếng
bả danh vọng, lòng tham lam quyền lực đã cuốn hút họ ngày càng lún
sâu vào con đường tha hóa trần tục.
Xây tượng lớn để làm gì?
Và mới đây, để phụ họa với phong trào xây tượng các lãnh tụ CSVN,
các lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” cũng cho xây tượng Phật
Hoàng Trần Nhân Tông hết sức tốn kém và hãnh diện là tượng đồng
Phật Hoàng lớn nhất Việt Nam.
Xây chùa lớn, tượng đẹp để làm gì trong khi cả một dân tộc đang
trầm luân trong độc tài, nghèo nàn, lạc hậu?
Trong thời đại Lý Trần, thời đại vàng son của Phật giáo Việt Nam,
nhiều nhà sư đã tham gia trực tiếp vào việc trị nước chăn dân và
hầu hết vua chúa không những đều là Phật tử mà còn là tổ của các
Thiền tông lớn, nhưng không phải vì thế mà Phật giáo trở thành lực
lượng thống trị xã hội. Trái lại, các tôn giáo khác tại Việt Nam
vẫn tồn tại và có ảnh hưởng quan trọng trong mọi sinh hoạt văn hóa
xã hội, thương yêu và gắn bó với nhau.
Các nhà vua thời Lý, thời Trần với quyền hạn tuyệt đối, nhưng thay
vì xây dựng những đền chùa nguy nga bằng mồ hôi nước mắt của nhân
dân, các ngài đã để lại cho chúng ta ngày ngay những tổ đình uy
nghiêm, tôn kính nhưng với một kiến trúc vô cùng khiêm nhượng. Tại
sao? Đơn giản bởi vì các ngài là những vị vua nhân từ, lãnh đạo một
đất nước vừa nghèo khó, vừa phải lo chống đỡ các triều đại Bắc
phương không ngừng xâm lấn. Các ngài đã biết đặt sự an lạc của dân
tộc lên trên sự hưng thịnh riêng của tôn giáo mình. Các lãnh đạo
Phật Giáo ngày nay đã xa rời tinh thần bao dung, từ bi và đơn giản
của đức vua Trần Nhân Tông.
“Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” là gì?
Phương châm “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” của “Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam” không đại diện cho truyền thống của một tôn
giáo đã gắn liền với dòng sinh mệnh Việt Nam mà chỉ nói lên sự sợ
hãi, phụ thuộc, nô lệ vào đảng CS. Đảng CS và dân tộc Việt Nam
không đồng hành về tương lai mà cũng chưa hề đồng hành trong quá
khứ.
Nhân dân Việt Nam muốn gì?
Nhân dân Việt Nam muốn có một cuộc sống an bình thịnh vượng trong
một cơ chế chính trị dân chủ pháp trị và phát triển toàn diện phù
hợp với thời đại văn minh dân chủ. Chính quyền trong cơ chế chính
trị dân chủ có nhiệm vụ ngăn chận mọi hình thái độc quyền, bảo đảm
công bằng xã hội và bình đẳng cơ hội cho mọi thành phần dân tộc và
mọi miền đất nước, tạo dựng môi trường, điều kiện và cơ hội đồng
đều để mỗi người phát huy khả năng và sở thích đặc thù, đóng góp
vào việc xây dựng nền văn minh mới cho toàn dân và cho nhân loại.
Đảng CS muốn gì?
Sau hơn 80 năm qua nhiều lần thay màu đổi dạng nhưng Đảng vẫn duy
trì một mục đích áp đặt quyền cai trị tuyệt đối lên toàn dân tộc
Việt Nam, sống giàu sang phú quý trên mồ hôi nước mắt và xương máu
nhân dân, kiểm soát mọi sinh hoạt vật chất cũng như tinh thần của
đời sống con người, áp dụng mọi biện pháp để tiêu diệt một cách
không nương tay các hành vi chống đối, mọi tiếng nói bất đồng phát
sinh từ trong lòng dân tộc. Hãy xem những hình ảnh nội thất của
người đốn củi Nông Đức Mạnh và của binh nhì Lê Khả Phiêu để thấy sự
xa cách giữa đời sống của hai Tổng bí thư CS và của tuyệt đại đa số
còn lại của dân tộc Việt Nam. Chúng không có một chút xót thương
cảm thông, chia sẻ nào dành cho đại đa số người dân đang chịu đựng
trong nghèo nàn thiếu thốn. A dua theo chúng, cúi đầu tuân phục
chúng là tòng phạm bán nước.
Phân tích để thấy, dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa Cộng Sản chẳng
những không chia sẻ một mục đích cuối cùng chung mà còn mâu thuẫn
đối kháng ngay từ trong căn bản. Do đó, về lý luận cũng như về thực
tế, không bao giờ có chuyện “đảng song hành cùng dân tộc” như các
lãnh đạo “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” lập đi lập lại khẩu hiệu
“Đạo pháp, Dân tộc, Chủ nghĩa xã hội” tuyên truyền mị dân của đảng
CS.
Lịch sử đạo Phật đã cho thấy, trong thời đại nào và ở đâu, các hàng
tăng sĩ lãnh đạo Phật Giáo thỏa hiệp với tầng lớp thống trị, bị lôi
cuốn vào vòng lợi danh và quyền lực, bàng quan trước nỗi khổ đau
bất hạnh của con người, ở đó Phật Giáo không còn là đại diện cho
đạo từ bi của Đức Phật. Kẻ sát nhân chỉ giết một người hay vài
người, nhưng một khi các lãnh đạo tôn giáo, trong trường hợp này là
“Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam”, bị tha hóa, toa rập với đảng CS vô
thần để hủy diệt đời sống tinh thần của nhiều triệu người, những
lãnh đạo Phật Giáo đó có trọng tội đối với dân tộc không khác gì
lãnh đạo đảng CSVN.(NPH tô đậm)
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen