GS. Trần Gia Phụng
Ngày 5-8-2015, bộ Giáo Dục và Đào Tạo Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam công bố “Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng
thể”. Dự thảo chương trình nầy khá ôm đồm, trong đó có một môn học
gây tranh cãi ồn ào từ mấy tháng nay là môn lịch sử ở bậc trung
học, được bản dự thảo chương trình của bộ GD-ĐT đề nghị chuyển đổi
từ một môn học bắt buộc thành môn tích hợp ở cấp trung học cơ sở
(THCS) và môn tự chọn ở cấp trung học phổ thông (THPT). Cấp THCS là
cấp 2, tương đương trung học đệ nhất cấp thời Việt Nam Cộng Hòa.
Cấp THPT là cấp 3, tương đương trung học đệ nhị cấp thời VNCH.
Nhiều nhà giáo, nhiều nhà nghiên cứu sử, kể cả các sử gia trong
nước, cho rằng làm như thế là hạ giá môn lịch sử, đứng ra tổ chức
hội thảo và mời chức sắc bộ GD-ĐT đến thảo luận. Ngày 15-11-2015,
tại Hà Nội, cuộc hội thảo mang tên “Môn lịch sử trong giáo dục phổ
thông”, diễn ra cuộc tranh luận giữa một bên là đại diện bộ GD-ĐT,
và bên thứ hai là các nhà nghiên cứu sử học, các giáo viên trung
học. Cuộc hội thảo đi đến kết quả là “sư nói sư phải, vãi nói vãi
hay” (tục ngữ).
Quốc hội Hà Nội cũng vào cuộc. Sau nhiều cuộc thảo luận, quốc hội
Hà Nội đưa ra quyết định ngày 27-11-2015, yêu cầu bộ GD-ĐT tiếp tục
giữ môn lịch sử là môn học độc lập trong chương trình trung học như
cũ. Tuy nhiên quyết định của quốc hội Hà Nội không phải là quyêt
định cuối cùng.
Cuộc tranh luận về bộ môn lịch sử hiện nay ở trong nước xoay quanh
chuyện là nên sắp môn lịch sử trung học vào môn học bắt buộc hay
môn học tích hợp hoặc tự chọn? Như thế, các giáo viên, các nhà
nghiên cứu sử học, chỉ thảo luận cách thức giảng dạy bộ môn lịch sử
ở bậc trung học như thế nào, mà không đi vào điểm căn bản cốt yếu
của vấn đề là vì lý do sâu xa nào đưa đến việc bộ GD-ĐT chuyển môn
lịch sử từ một môn học bắt buộc thành môn học tích hợp hoặc tự
chọn? Nguồn gốc của vấn đề là ở đó.
CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC CỘNG SẢN
Hồ Chí Minh (HCM), Mặt trận Việt Minh và đảng Cộng Sản (CS) cướp
chính quyền và lập chính phủ đầu tiên ngày 2-9-1945. Bộ trưởng Giáo
dục là Vũ Đình Hòe. Chương trình giáo dục lúc đầu vẫn theo chương
trình Hoàng Xuân Hãn của chính phủ Trần Trọng Kim. Hồ Chí Minh cải
tổ chính phủ lần thứ ba ngày 3-11-1946, thì Nguyễn Văn Huyên làm bộ
trưởng giáo dục, Nguyễn Khánh Toàn làm thứ trưởng.
Nguyễn Khánh Toàn, người Thừa Thiên, sinh năm 1905, vào học Trường
Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội năm 1923, rời trường năm 1926, không được
cấp bằng tốt nghiệp vì theo lời Toàn, nhà trường cho rằng Toàn
chống chính phủ. Năm 1928 Toàn đi Pháp, rồi qua Nga, vào học ở Học
viện Thợ thuyền Đông phương (Université des travailleurs d’Orient)
từ năm 1928 đến năm 1931, có tên Nga là Minin, có vợ Nga. Sau đó,
Toàn ở lại Liên Xô, phụ trách việc giúp đỡ những học sinh Việt Nam
mới đến. (Vy Thanh, KYTB Lò đào tạo cán bộ sách động của Quốc Tế
Cộng Sản, tập 1, California: 2013, tt. 477-483.) Năm 1939, Nguyễn
Khánh Toàn cùng Nguyễn Ái Quốc (HCM) qua Trung Hoa, cùng đến Diên
An, căn cứ của CS ở bắc Trung Hoa. Toàn ở lại Diên An, đến năm 1946
mới trở về Việt Nam. (Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản
[nguyên bản Anh văn], Mặc Định dịch, Paris: 1962, tt.79-81.)
Tuy chỉ là thứ trưởng, nhưng Nguyễn Khánh Toàn là người du nhập và
áp dụng chính sách giáo dục từ Liên Xô vào Việt Nam. Đó là chính
sách “giáo dục phục vụ chính trị” do bộ trưởng Giáo dục Liên Xô là
Kalenikov (?) đưa ra. (Theo lời kể của những nhà giáo lão thành, đã
từng tham dự khi còn trẻ, khóa huấn luyện chương trình cải tổ giáo
dục năm 1946 của Nguyễn Khánh Toàn.)
Chính sách giáo dục phục vụ chính trị, phục vụ đảng là chính sách
giáo dục nền tảng của đảng CSVN, được áp dụng từ năm 1946 cho đến
ngày nay, không thay đổi. Điều nầy dễ hiểu vì dưới chế độ CS, không
phải chỉ riêng ngành giáo dục, mà tất cả các ban ngành đều phải
phục vụ đảng. Hai ví dụ nổi tiếng là “quân đội ta trung với đảng…”
(lời HCM), hoặc “công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình” (khẩu
hiệu hiện nay của ngành công an CS).
Phát biểu tại lớp học tập chính trị các giáo viên cấp 2 và cấp 3
miền Bắc, dạy từ lớp 6 đến lớp 12, tại Hà Nội ngày 13-9-1958, HCM
nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm
thì phải trồng người.” (Báo Nhân Dân ngày 14-9-1958.) Câu nầy được
nhà trường Bắc Việt Nam (BVN) xem là tư tưởng vĩ đại về giáo dục
của HCM, thật ra được HCM dịch lại lời của Quản Trọng thời Xuân thu
(722-479 TCN) bên Trung Hoa: “Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc;
thập niên chi kế mạc như thụ mộc; chung thân chi kế mạc như thụ
nhân.” (Kế hoạch một năm không gì bằng trồng lúa; kế hoạch mười năm
không gì bằng trồng cây; kế hoạch trọn đời không gì bằng trồng
người.) (Quản Tử, chương “Quyền tu”.)
Như thế, HCM và đảng CSVN thấy rõ tầm chiến lược đường dài quan
trọng của ngành giáo dục. Quân đội và công an đều phải trung thành
với đảng CS, vậy dứt khoát giáo dục cũng phải trung thành với đảng
CS. Giáo dục phục vụ chế độ, có nghĩa là đảng CS đặt sẵn cái cày
trước con trâu. Trâu ơi! Cứ thế mà tiến bước theo con đường xã hội
chủ nghĩa.
Giáo dục phục vụ chế độ nghĩa là giáo dục phải có tính đảng; giáo
viên phải vững chắc lập trường đảng, giáo khoa phải đầy đủ tính
đảng. Nền giáo dục phục vụ chế độ nhắm đào tạo những con người hồng
(đảng tính) hơn chuyên (chuyên môn), đồng thời là những con người
biết vâng lời đảng CS, hơn là biết suy nghĩ độc lập.
Nói trắng ra, nền giáo dục dưới chế độ CS, từ đại học xuống tới mẫu
giáo, không được độc lập mà phải phục vụ đảng, nghĩa là lệ thuộc
hoàn toàn vào chủ trương chính trị của đảng CS.
Xin chú ý là giáo dục phục vụ chế độ thì tất cả các bộ môn trong
chương trình giáo dục, đều phục vụ chế độ, trong đó có môn lịch sử.
Cộng sản Việt Nam rất chú trọng đến ngành lịch sử nói chung và môn
lịch sử trong trường học nói riêng. Môn lịch sử trong trường học
được CS dùng để tuyên truyền về chủ nghĩa CS, về phong trào CS Việt
Nam, về các lãnh tụ CS, đặc biệt về HCM, về hoạt động và thành quả
của đảng CSVN từ khi thành lập năm 1930 cho đến ngày nay, nhứt là
giai đoạn từ khi giành được chính quyền năm 1945 cho đến thành công
năm 1975…
Chính sách giáo dục nầy về sau được củng cố thêm bằng luật số
11/1998/QH10 của Quốc hội Hà Nội, áp dụng từ ngày 2-9-1998, theo
đó: “…Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có
tính nhân dân…lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng.”
LỊCH SỬ THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Lịch sử là những hoạt động của loài người, đã xảy ra trong quá khứ
của loài người, liên hệ đến đa số loài người. Vì là những sinh hoạt
đã xảy ra trong quá khứ, nên không ai có thể ngược dòng thời gian
để sửa đổi quá khứ, nghĩa là không ai có thể sửa đổi được lịch sử.
Môn lịch sử, sử học, hay sử ký trình bày lại quá khứ loài người như
quá khứ đã xảy ra, hay cố gắng trình bày quá khứ càng trung thực
càng tốt. Muốn trình bày quá khứ trung thực, đúng sự thật đã xảy
ra, thì yếu tố tối cần thiết đầu tiên cho người viết sử là tự do
ngôn luận, tự do tư tưởng mới có thể viết được sự thật lịch sử.
Chỉ mới ngang đây, bắt đầu xuất hiện hai mâu thuẫn lớn giữa chính
sách giáo dục CS với môn lịch sử: 1) Một bên là giáo dục (trong đó
có môn lịch sử) phục vụ đảng, phục vụ chế độ CS, còn một bên là
trình bày quá khứ trung thực như quá khứ đã xảy ra, trung lập,
không sửa đổi, không phục vụ ai cả. 2) Chế độ CS là chế độ độc tài,
toàn trị, chuyên chế, không có tự do, trong khi muốn trình bày
trung thực quá khứ thì phải có tự do ngôn luận, tự do tư tưởng.
Dưới chế độ CS độc tài toàn trị bưng bít, để giải quyết hai mâu
thuẫn nầy, CS chỉ cần một động tác rất dễ dàng và đơn giản là CS
không cần sự thật quá khứ, mà để phụcvụ đảng, thì CS tùy tiện viết
lại lịch sử, sửa đổi lịch sử theo nhu cầu của đảng CS. Nói cách
khác, lịch sử của CS không phải là sự thật quá khứ, mà là thứ lịch
sử theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là lịch sử biên tập lại
theo quyết định của đảng CS, nhằm tuyên truyền và làm lợi cho CS.
Có khi vì nhu cầu tuyên truyền, CS bịa đặt ra những câu chuyện dối
trá rồi đưa vào lịch sử, như chuyện “Lê Văn Tám”. Người sáng tác
chuyện Lê Văn Tám là sử gia hàng đầu của CS là Trần Huy Liệu. Trước
khi chết năm 1969, Trần Huy Liệu hối hận, nhờ sử gia Phan Huy Lê
cải chính khi nào có cơ hội. Phan Huy Lê đã cải chính điều nầy tại
Hà Nội vào tháng 2-2005, xác nhận chuyện Lê Văn Tám không có thật.
(Người Việt Online, 20-3-2005.) Tuy đã được cải chính, sách giáo
khoa sử CS đến nay vẫn còn ca ngợi “anh hùng”Lê Văn Tám…
Loại lịch sử theo định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể phổ biến
trong không gian bưng bít dưới chế độ độc tài. Tại Bắc Việt Nam từ
1954 đến 1975, ngoài sách vở, báo chí, tài liệu của CS, không có
bất cứ nguồn sách vở, tài liệu, báo chí nào khác, để so sánh, đối
chiếu, nên CS ưa viết gì thì viết, vẽ vời rồng rắn tự do trong các
sách giáo khoa sử CS.
Hơn nữa, “giáo khoa là pháp lệnh”. Thầy cô giáo không được giảng
dạy ra ngoài giáo khoa. Học sinh nhắm mắt học theo giáo khoa, không
được bàn cãi. Nếu có người, nhất là những người lớn tuổi, phát hiện
giáo khoa sử CS không đúng sự thật, cũng đành phải im tiếng, vì lên
tiếng phê bình sách giáo khoa là bị ghép tội chống đảng, phản động,
và sẽ bị tù tội… (Kinh nghiệm vụ Nhân Văn-Giai Phẩm làm cho mọi
người khiếp sợ.)
Việc soạn thảo và in sách giáo khoa được kiểm soát chặt chẽ. Những
người soạn sách phải là đảng viên có lập trường CS vững vàng và
sách giáo khoa phải được duyệt xét thật kỹ càng trước khi in. Ngoài
ra, để kiểm soát đời sống văn hóa quần chúng, CS độc quyền phân
phối giấy in, quốc doanh các nhà in, các phương tiện truyền thông,
đài phát thanh, báo chí, sách vở, văn học, nghệ thuật, điện ảnh,
giải trí, và hoàn toàn không có một tạp chí tư nhân.
Sau biến cố năm 1975, chiếm được Nam Việt Nam (NVN), CS tiếp tục bế
quan tỏa cảng, thống trị đất nước một cách chặt chẽ. Nhà cầm quyền
CS tịch thu, tiêu hủy toàn bộ sách vở, báo chí NVN mà CS kết tội là
“văn hóa đồi trụy”. Ngoài việc bắt quân nhân công chức chế độ Cộng
hòa đi tù dài hạn không tuyên án, CS còn bắt bớ, tù đày những nhà
văn hóa, những văn nghệ sĩ NVN không theo CS, đóng cửa những nhà
xuất bản, đưa vào quốc doanh những nhà sách, những nhà in. Chủ đích
của CS là xóa bỏ toàn bộ nền văn hóa NVN, giống như vào thế kỷ 15,
nhà Minh xóa bỏ văn hóa Đại Việt.
Dầu CS dốc hết sức tiêu diệt văn hóa NVN, nhưng CS vẫn bất lực
trong việc triệt tiêu di sản văn hóa NVN. Di sản văn hóa NVN gồm
hai phần: 1) Di sản văn hóa dân tộc cổ truyền được bảo tồn và lưu
truyền ở NVN sau năm 1954, mà ở BVN bị CS tiêu diệt. 2) Nền văn hóa
mới từ Âu Mỹ du nhập và phát triển trong 21 năm tự do dân chủ ở
NVN. Chính di sản văn hóa NVN lan truyền trên toàn quốc làm thay
đổi xã hội sau năm 1975.
Ngoài ra, còn có thêm các yếu tố thời cuộc mới, cũng giúp cho dân
chúng Việt Nam, dầu bị CS kềm kẹp, vẫn tự học hỏi và thay đổi nếp
sống, nâng cao nhận thức chính trị, văn hóa.
Đó là sau biến cố năm 1975, phong trào di tản rồi vượt biên ra nước
ngoài lánh nạn CS càng ngày càng rầm rộ. Người Việt ra nước ngoài
tập hợp thành cộng đồng người Việt hải ngoại hết sức năng động khắp
nơi trên thế giới. Sau một thời gian ổn định cuộc sống ở nước
ngoài, người Việt hải ngoại chẳng những gởi tiền, gởi hàng hóa,
thuốc men về cứu trợ gia đình, bà con, mà còn chuyển nhiều thông
tin, kiến thức, sách báo, tài liệu văn hóa, chính trị, lịch sử về
nước.
Cũng sau năm 1975, CS áp dụng chính sách kinh tế chỉ huy, làm cho
đất nước càng ngày càng nghèo đói, kiệt quệ. Để tự cứu mình, từ năm
1985, CS bắt đầu thay đổi. Lúc đầu, sự thay đổi khá chậm chạp,
nhưng rồi nhanh dần.
Vì muốn hội nhập vào dòng sống quốc tế hiện đại, CS đành phải dần
dần mở cửa rộng hơn. Công nghệ truyền thông thế giới tràn vào Việt
Nam; mạng lưới thông tin quốc tế (Intermet) bao trùm trời đất. Dù
CS cố gắng bưng bít, dựng lên những bức tường lửa, luồng gió văn
hóa tự do dân chủ từ nước ngoài càng ngày càng xâm nhập Việt Nam.
Do ảnh hưởng của các yếu tố trên đây, dân chúng trong nước dần dần
tự mở rộng hiểu biết, tiếp thu thêm nhiều điều mới lạ, càng ngày
càng khám phá thêm nhiều sự thật lịch sử, càng phát hiện thêm những
dối trá, lừa bịp trong tài liệu, giáo khoa sử của CS.
LỊCH SỬ THEO ĐINH HƯỚNG XHCN BỊ PHÁ SẢN
Trong khi trình độ hiểu biết của dân chúng và của sinh viên, học
sinh được âm thầm nâng cao, nhà cầm quyền CS vẫn giữ lối tuyên
truyền cũ, vẫn tiếp tục giảng dạy môn lịch sử theo kiểu phục vụ
đảng CS, và theo sách giáo khoa (pháp lệnh) do CS soạn thảo.
Theo chương trình, cấp THCS thi tốt nghiệp cuối năm lớp 9, và cấp
THPT thi tốt nghiệp cuối năm lớp 12. Hai lớp nầy cách nhau ba năm,
nhưng học cùng giai đoạn lịch sử từ năm 1930 là năm đảng CS được
thành lập cho đến năm 2000. Tuy cùng giai đoạn, chương trình lớp 12
mở rộng nhiều hơn so với lớp 9.
Vì là chương trình thi tốt nghiệp lấy bằng cấp, nên giáo viên phải
dạy kỹ và học sinh phải học kỹ giai đoạn nầy. Trải qua hai kỳ thi
(lớp 9 và lớp 12) nên giai đoạn nầy được dạy kỹ và học kỹ hai lần.
Đảng CS được thành lập năm 1930 nên CS rất chú trọng đến giai đoạn
nầy.
Trong giai đoạn nầy, ngoài chiến tranh 30 năm từ 1946 đến 1975, CS
còn có hai cuộc chiến quan trọng mà CS gọi là chiến tranh “Bảo vệ
biên giới Tây Nam” tức chiến tranh Cambodia năm 1978; và chiến
tranh “Bảo vệ biên giới phía Bắc” tức chiến tranh chống Trung Cộng
xâm lược năm 1979. Cả hai cuộc chiến nầy gây hậu quả trầm trọng cho
người Việt. (Đã có nhiều sách báo viết đến.)
Điều đáng nói là sách Lịch sử lớp 12 viết về giai đoạn nầy, do bộ
GD-ĐT soạn và in lần thứ sáu năm 2014, tt. 206-207, trình bày cả
hai cuộc chiến quan trọng trên chỉ trong 23 dòng chữ, kể cả tiểu
đề, chiềm khoảng 2/3 trang sách. (Cũng trong sách nầy, trận Điện
Biên Phủ năm 1954 chiếm 6 trang; trận Sài Gòn năm 1975 chiếm 5
trang.)
Còn chuyện Trung Cộng xâm lăng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
thì sách không viết đến. Điều nầy có nghĩa là CSVN tránh nói đến vì
đã nhượng hai quần đảo nầy cho TC.
Đó là giai đoạn lịch sử 1930-2000. Còn lịch sử Việt Nam trước đó,
tức từ khi lập quốc đến năm 1930, thì được CS sắp vào chương trình
các lớp không thi, tức các lớp 6, 7, 8 (PTCS) và 10, 11 (PTTH).
Giai đoạn nầy lâu dài hơn, lại là thời kỳ tổ tiên chúng ta chống
Trung Hoa để giành độc lập và bảo vệ độc độc lập. Cộng sản lơ là
giai đoạn nầy, chẳng những vì đảng CS chưa thành lập, mà còn vì
những chiến công vang dội của tổ tiên chúng ta làm kinh động Trung
Hoa, và nhất là nuôi dưỡng và hun đúc tinh thần chống ngoại xâm Bắc
phương của người Việt Nam..
Các em học sinh càng ngày càng nhận chân rõ những dụng ý trong nội
dung môn sử phục vụ chế độ nên đâm ra chán học môn sử, chứ không
phải vì các em không thích học môn sử. Sử gì mà khi nào CS cũng
thắng, địch cũng thua; chỉ biết ca tụng Liên Xô, TC một cách lạ
lùng.
“Ta nhất quyết đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sỹ,Hình như đấy là niềm tin, ý chí và tự hào.Mường tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ,Sự ngây thơ đẹp tuyệt vời và ngờ nghệch làm sao…”
(Việt Phương, “Cuộc đời như vợ của ta ơi”, tập thơ Cửa mở.)
[Việt Phương từng là thư ký riêng của Phạm Văn Đồng.]
(Việt Phương, “Cuộc đời như vợ của ta ơi”, tập thơ Cửa mở.)
[Việt Phương từng là thư ký riêng của Phạm Văn Đồng.]
Khi chưa cải tổ, kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông gồm bốn môn
thi bắt buộc là ngữ văn, toán, ngoại ngữ, và một môn tự chọn trong
số các môn còn lại: vật lý, hóa học, sinh học, lịch sử, địa lý. Có
nhiều nơi, nhất là ở thành phố, rất ít học sinh chọn thi môn sử. Ví
dụ trong năm 2015 ở Sài Gòn, trường Bùi Thị Xuân (quận 1), trong
630 học sinh dự thi THPT chỉ có 9 em chọn thi môn sử; trường Lê Thị
Hồng Gấm (quận 3), có 400 học sinh dự thi THPT, thì chỉ có 10 em
chọn thi môn sử. Trường Long Trường (quận 9), trong 540 học sinh
chỉ có 20 em chọn thi môn sử. (Báo VNEpress, trong nước ngày
8-5-2015.)
Từ đó, nhà trường CS gặp nhiều khó khăn trong việc dạy môn lịch sử.
Khó khăn đầu tiên là nền tảng chính sách giáo dục CSVN hiện nay
trong nước vốn được minh định bằng luật số 11/1998/QH10 của Quốc
hội Hà Nội, áp dụng từ ngày 2-9-1998: “…Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính
nhân dân…lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng.”
Thực tế ngày nay ai cũng biết chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời và bị
đào thải từ sau biến cố Đông Âu năm 1990-1991. Ngày 25-1-2006, quốc
hội Âu Châu họp tại Strasbourg (Pháp) lên án chủ nghĩa CS là tội ác
chống nhân loại. Còn “tư tưởng Hồ Chí Minh”, thì chính HCM xác nhận
“Không, tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác- Lê nin.” (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ & Quốc hội, Nxb. Văn Nghệ [tái
bản], California, 1995, tt. 150-152. Nguyễn Văn Trấn là một cán bộ
CS cao cấp ở miềnNam.)
Sinh viên, học sinh không còn tin chủ nghĩa Mác-Lênin và biết rõ
HCM không có tư tưởng, nhưng nhà cầm quyền CS lại không chịu thừa
nhận thực tế nầy, mà vẫn “kiên định lập trường”, bắt học sinh phải
học. Làm sao học sinh không chán ngấy?
Càng ngày càng nhiều sự thật lịch sử được đưa ra ánh sáng, như
chuyện về HCM, về Nhân Văn-Giai Phẩm, về Cải cách ruộng đất, về
cuộc tấn công NVN… Vì vậy học sinh lại càng nghi ngờ tính cách
trung thực, khách quan của giáo khoa sử CS.
Giáo khoa sử CS luôn luôn bôi đen, mạ lỵ địch thủ chính trị của
BVN, là NVN hay Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Sách sử CS cho rằng VNCH
là “ngụy quân, ngụy quyền”, nhưng ngày nay, thực tế cho thấy VNCH
đã tận tình chiến đấu để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ tự do dân
chủ và bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ. Gần đây, một người Hà Nội đã
viết như sau: “Người ta gọi các anh là “quân ngụy”,/ Bởi các anh là lính Việt Nam
Cộng Hòa./ Nhưng tôi gọi các anh là liệt sĩ,/ Bởi các anh ngã xuống
vì Hoàng Sa.” (Phan Duy Kha, 14-1-2014,http://phanduykha.wordpress.com.)
Thêm một chuyện nữa. Trong chiến tranh 1946-1975, Trung Cộng (TC)
viện trợ mạnh mẽ cho CSVN. Sau năm 1975, CSVN chạy theo Liên Xô,
nhưng Liên Xô sụp đổ năm 1991. Cộng sản quay qua đầu phục TC. Trung
Cộng giúp CSVN duy trì quyền lực, nhưng ép CSVN ký hiệp ước nhượng
ải Nam Quan, nhượng biển, nhượng đảo cho TC. Trung Cộng trở thành
quan thầy của CSVN.
Trong khi đó, lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm phương
bắc, tức chống Trung Hoa xâm lăng. Lịch sử Việt Nam đã hun đúc tinh
thần chống ngoại xâm mạnh mẽ nơi nhân dân Việt Nam, đến nỗi ngày
29-12-2014, bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh phải than lên
rằng: “Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ
con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc.” (Phát biểu của bộ trưởng Phùng Quang Thanh ngày 29-12-2014. Tin
báo chí trong và ngoài nước ngày 30-12-2014.)
Chỉ cần vài ví dụ thật đơn giản trên đây, cũng đủ thấy chẳng những
ngành giáo dục mà cả chế độ CS rất lúng túng, khó khăn khi lịch sử
đích thực của tổ tiên Việt Nam được phổ biến rộng rãi.
RƯỢU CŨ BÌNH MỚI
Để giải quyết những khó khăn trên đây, bộ GD-ĐT/CS cải tổ chương
trình trung học, đưa ra “Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể”, theo đó bộ GD-ĐT đề nghị chuyển đổi môn lịch sử từ một môn học
bắt buộc thành môn tích hợp và môn tự chọn.
Về lịch sử tích hợp, ở cấp THCS (cấp 2, tương đương trung học đệ
nhất cấp), môn lịch sử được tích hợp với các môn khác, nghĩa là
không phải là học môn sử riêng biệt như chương trình cũ, mà là một
hình thức mới, kết hợp và lồng ghép lịch sử với một số môn liên hệ
vào nội dung chủ đề các bài học.
Về lịch sử tự chọn, ở cấp THPT (cấp 3, tức trung học đệ nhị cấp),
ngoài các môn học bắt buộc là toán, ngữ văn [Việt văn], ngoại ngữ,
công dân với tổ quốc, học sinh được tự chọn một môn trong số các
môn học còn lại là lịch sử, địa lý, hóa học, sinh học, vật lý…
Trong cả hai trường hợp, dự thảo chương trình mới chỉ thay đổi cách
dạy môn lịch sử ở trường học, và tránh không đả động gì đến đến
điều quan trọng cốt yếu là chủ trương giáo dục phục vụ chính trị,
nghĩa là môn lịch sử vẫn phải lệ thuộc vào đường lối chính sách của
đảng CS, truyên truyền cho đảng CS.
Làm như thế, học sinh được âm thầm tách xa khỏi môn sử, vì ở cấp
THCS, môn sử được kết hợp với các môn khác; còn ở cấp THPT, học
sinh gần đến tuổi trưởng thành, bắt đầu chú ý đến thời sự, hiểu
biết rộng rãi hơn, không thích môn lịch sử phục vụ chế độ, thì có
con đường khác để học, không vướng bận chuyện học sử.
Đây là một diệu kế kín đáo của bộ GD-ĐT trong việc cải tổ chương
trình trung học lần nầy, vừa duy trì môn lịch sử phục vụ chính trị
theo chủ trương của đảng CSVN; vừa làm phai lạt môn sử, lại mở một
lối đi khác cho những học sinh không thích học môn lịch sử phục vụ
chính trị. Các em không thích môn sử nầy, thì các em có sẵn con
đường tránh đi chỗ khác, cho được việc đảng, khỏi thắc mắc.
Lúc đó, bộ GD-ĐT và nhà trường CS sẽ có lý do chính đáng để đổ lỗi
cho học sinh: Học sinh không học môn lịch sử là do học sinh tự
quyết định, là vì học sinh thích học các môn khác hơn, là vì học
sinh có năng khiếu các môn khác hơn, hoặc là vì các môn khác dễ học
hơn môn sử …, chứ không phải vì lỗi về cách giảng dạy của nhà
trường, hay lỗi của chương trình môn lịch sử do bộ GD-ĐT đưa ra,
hay lỗi tại bản chất môn lịch sử phục vụ chính trị làm cho học sinh
chán ghét. Thâm thúy đến thế là cùng.
KẾT LUẬN
Chủ trương chính sách giáo dục của chế độ CS là giáo dục phục vụ
chính trị, phục vụ đảng CS. Nhiệm vụ của nền giáo dục CS đã được
khẳng định rõ ràng chắc nịch như thế, không tranh cãi và không bao
giờ thay đổi. Từ năm 1945, CS nhiều lần thay đổi chương trình giáo
dục, nhưng chỉ thay đổi cách thức tổ chức các lớp trung tiểu học
(hệ 10 năm, hệ 12 năm), chứ không thay đổi nội dung giảng dạy,
không thay đổi chính sách giáo dục, và luôn luôn duy trì môn lịch
sử theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các sách sử CS hay giáo khoa
sử CS, dù ai viết, luôn luôn cùng một luận điệu, một kết luận như
nhau, chỉ thay đổi từ ngữ và hành văn mà thôi.
Nói cho cùng, dưới chế độ CS lịch sử theo định hướng xã hội chủ
nghĩa chỉ là bản tường thuật hay bản báo cáo hoạt động và thành
tích của đảng CS. Cũng có thể nói, lịch sử theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là loại bánh mà Chế LanViên đã viết: “Chưa cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ”. (Bánh vẽ – trích Di cảo của Chế Lan Viên). Học sinh chán ăn bánh
vẽ, chán đọc báo cáo, chứ học sinh không chán môn lịch sử.
Chủ trương giáo dục phục vụ chính trị tự bản thân đã làm giảm nhẹ
giá trị của bộ môn lịch sử, làm cho lịch sử không còn trung thực,
thiếu khách quan. Chắc chắn thầy cô giáo, những nhà nghiên cứu sử
trong nước dư biết điều nầy, nhưng vì yêu sử, yêu nghề, lại ở vào
cảnh “cá chậu chim lồng”, không thể lên tiếng nói thẳng, đành phải
gắng sức vớt vát được phần nào hay phần ấy. Thầy cô giáo, các nhà
nghiên cứu sử quan tâm, hội thảo như thế nào cũng vô ích. Có nói
cũng dư thừa. Đàn gãy tai trâu mà thôi.
Những mâu thuẫn giữa chính sách giáo dục của CS và tính chất môn
lịch sử không bao giờ có thể giải quyết được nếu chế độ CS còn tồn
tại trên đất nước Việt Nam. Chỉ khi nào đảng CSVN và chế độ CSVN bị
giải thể, thì lịch sử Việt Nam mới được giải thoát, khỏi bị kềm
kẹp, khỏi bị sửa dổi, bóp méo, và khi đó lịch sử mới tái hiện đầy
đủ như quá khứ oai hùng của dân tộc đã diễn ra.
Khi đó, môn lịch sử trong trường học mới tự do, trong sáng, trung
thực và trở lại vị trí xứng đáng mà mọi người trông đợi. (Trích
Lịch sử sẽ phán xét, xuất bản tháng 6-2016.)
(Toronto, 19-2-2016
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen