Donnerstag, 11. Februar 2016

Những mẩu chuyện trong 6.052 ngày

Trần Văn Tích

Năm 1982 tôi đã ra khỏi tù Việt cộng nhưng còn kẹt lại Việt Nam. Tối tối và sáng sáng hai vợ chồng luân phiên nhau nghe lén các đài BBC, VOA, bản tin tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Việt. Tình cờ một hôm tôi nghe loan tin Trung cộng thả một trăm năm mươi mốt tù cải tạo cuối cùng từ trại lao cải Liêu Ninh. Đây là những tù nhân chính trị thuộc chế độ Tưởng Giới Thạch không đào thoát được sau khi Mao Trạch Đông chiếm Hoa Lục nên bị bắt giam từ năm 1949. Tính ra họ ở tù tất cả ba mươi ba năm. Sau khi đọc S3 Phạm Gia Đại và S3 Lê Anh Kiệt, tôi vào google để check lại nguồn tin quá khứ và tìm ra bản tin nhan đề Chinese free Nationalist prisoners trên County Times, 13. May 1982. Tôi xác định được là những nạn nhân khốn khổ của Trung cộng thoát khỏi trại lao cải vào ngày thứ tư 12.05.1982.
Những ngày giữa tháng năm năm 1982 đó, tôi đi làm với Việt cộng trong một tâm trạng đặc biệt. Tôi tự nhủ dầu sao mình cũng đã được ra khỏi nhà tù nhỏ để sum họp với vợ con, trong khi đó thì những người tôn quen thân trong Phủ như Ông Nguyễn Minh Quân, Anh Nguyễn Kim Thúy, Ông Trung Tá Thêm chắc phải đến năm 2008 mới ra khỏi những nhà tù ở tận ngoài Bắc! (Chú thích : 1975 + 33 = 2008). Lúc đó tôi bồi hồi thương tiếc nghĩ về dĩ vãng khi còn ngày ngày ra vào cổng số 3 nhưng đồng thời tôi cũng buồn bã tuyệt vọng nhìn vào hiện tại để rồi bần thần cả mấy ngày trời. Sở dĩ suy nghĩ như thế vì tôi không lạ gì cung cách Việt cộng đối xử với phe quốc gia, chúng chỉ học theo Nga xô, Cu ba, Trung cộng; nhất là theo Trung cộng với chế độ lao cảilao giáo.

*
Anh Lê Anh Kiệt bị giặc cầm tù mười sáu năm bảy tháng hai ngày (Hồi ký – KALE, tr. 318). Tôi căn cứ vào thời lượng này để ước tính tổng số ngày tù nhằm đặt đầu đề cho bài viết hôm nay.
Thành quả trí tuệ của anh Lê Anh Kiệt mang đầu đề “17 năm trong các trại cải tạo của cộng sản Việt Nam, Hồi ký, KALE“, chưa đóng thành sách, in trên 318 trang giấy khổ lớn và chữ cũng cỡ lớn. Anh gọi đích danh Số 3 là Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo, anh thẳng thắn đề cập đến các cơ quan phụ như trụ sở ở đường Trần Bình Trọng hay các nhà an toàn ở đường Hai Bà Trưng, đường Phan Thanh Giản, đường Nguyễn Hậu. Tác phẩm của anh Phạm Gia Đại đã in thành sách dưới nhan đề “Những người tù cuối cùng, Hồi ký“, dày 494 trang, phát hành năm 2011. Anh tránh né chính danh của Phủ, thường chỉ gọi là “một cơ quan tình báo thuộc Phủ Tổng Thống“; ngoại trừ khi nói về Ông Nguyễn Phát Lộc.
So với những tác giả viết hồi ký về tù cải tạo khác, hai anh thuộc vào hạng thượng đẳng về kỷ lục ngồi tù lâu dài. Chuyện kể của hai anh cũng cung cấp được một số chi tiết mới mẻ. Anh Lê Anh Kiệt – cả hai vợ chồng Anh đều làm việc cho Phủ – bước vào lĩnh vực bình luận chính trị. Anh đặt câu hỏi nhức nhối về sự vô trách nhiệm của người Mỹ so với người Pháp khi cả hai cùng rời khỏi Việt Nam. Anh mỉa mai : “Họ luôn miệng bảo rằng họ đã chiến thắng trong cuộc chiến Việt Nam và họ đã trao cho lính của họ những chiếc huy chương đủ loại; tại sao họ lại để ông đại sứ của họ chạy trốn như một kẻ phản bội.“(tr.53). Dùng thể loại văn chương trần thuật, Anh kể chi tiết những ngày cuối tại Ban A 17 với xếp lớn là Ông Nguyễn Thành Long và với cô nữ thư ký tên là Đẹp liên tục đánh náy danh sách nhân viên để được Hoa Kỳ di tản. Anh không đến trụ sở ở đường Nguyễn Hậu vì Anh “biết đó chỉ là một lừa dối cuối cùng“ (tr. 53). Về khía cạnh này thì Anh Kiệt sáng suốt hơn cá nhân tôi. Đêm 29.04 đó gia đình tôi năm người đã theo thông báo của anh Ba Phước, Y tá, đến tụ tập tại điểm hẹn. Chúng tôi không hề chợp mắt suốt đêm và tôi đã cùng Ông Nguyễn Minh Quân và vài người nữa đi bộ ra trước cổng toà đại sứ Hoa Kỳ nhìn những chiếc trực thăng lượn vòng trên nóc, quần thảo với đoàn người đông nghẹt đang đứng chờ. Cảnh tượng toàn bộ nhân viên Phủ trình diện những ngày kế tiếp tại số 3 Bạch Đằng cũng được tường thuật chi tiết. Kế đến là giai đoạn trình diện “học tập cải tạo“ tại Trường Chu Văn An. Cả hai vợ chồng cùng trình diện nhưng Chị Kiệt được cho ra về vì sắp đến ngày sinh. Rồi cuộc sống ở trại cải tạo Long Thành với mười bài học tập. Chẳng rõ anh Kiệt “học tập tốt“ đến đâu mà Anh ghi ngày sinh nhật Hồ Chí Minh là 19 tháng tám! (tr. 121). Anh Kiệt bị đưa ra Bắc trên chiếc tàu thủy mang tên Sông Hương. Cảnh sống như thú vật trên con tàu này đã được nhiều tác giả khác mô tả, ví dụ Tạ Tỵ trong Đáy điạ ngục. Ngoài Bắc, tại trại Tân Lập, anh Kiệt thuộc nhóm làm gạch, giống như anh Phạm Gia Đại. Nhưng anh Phạm Gia Đại cho biết đất để làm gạch do chính các anh dùng chân trần để đạp nhuyễn, trong khi anh Lê Anh Kiệt thì bảo là có hai con trâu “phụ tá“(tr. 173). Ngoài Bắc, anh Kiệt chỉ ở một trại tù duy nhất là trại Tân Lập. Điều này khá đặc biệt vì thông thường, ai bị đưa ra bắc thường bị chuyển trai nhiều lần, anh Phạm Gia Đại cũng thế. Ngày 09.04.1982, sau bốn năm, mười một tháng và mười tám ngày, anh Kiệt được đưa trở về Nam bằng tàu hoả để tiếp tục ở tù tại trại Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải. Ngày 16.01.1992, trước Tết hơn mười ngày, anh Lê Anh Kiệt được thả (tr. 313).
*
Anh Phạm Gia Đại bị đưa ra Bắc bằng phi cơ C-130. Trước đó, tại làng cô nhi Long Thành, Anh ở tù chung với anh Nguyễn Kim Thúy Trưởng Ban R và Ông Nguyễn Phát Lộc, Quyền Đặc ủy trưởng (tr. 42). Không rõ anh Lê Anh Kiệt có ở tù chung với các nhân viên cao cấp của Phủ không; chỉ biết đọc Anh không hề thấy Anh đề cập đến họ, khác với anh Phạm Gia Đại. Anh Đại tường thuật chi tiết trường hợp Ông Quyền Đặc ủy trưởng Nguyễn Phát Lộc từ trần trong tù mà lại ở ngoài tù (tr. 229-231). Anh cũng kể về sự hy sinh hết sức bi thảm của Ông Nguyễn Duy Xuân, Viện trưởng Viện Đại học Cần thơ (tr. 234-240). Đây cũng là dịp để Anh nêu nhận xét xác đáng : “Chúng ta mất hết cả rồi nhưng cái học thức của mình thì không mất, Ông Viện trưởng à.“ (tr. 236). Rất tiếc anh Phạm Gia Đại không có dòng chữ nào đề cập đến hoàn cảnh mệnh một của anh Nguyễn Kim Thúy Trưởng Ban R. Có lẽ Anh không ở tù cùng trại? Hồi ký của Anh Phạm Gia Đại chú trọng tường thuật về cuộc sống lao cải ở ngoài Bắc, trải qua nhiều trại tù. Đọc Anh, chúng ta còn có cơ hội sống nhiều tình huống khác thường thuộc lĩnh vực tâm linh, huyền bí mang đậm tính chất truyền kỳ liêu trai. Tháng 05.1988, anh Đại được di chuyển về Miền Nam cũng bằng tàu hoả như anh Kiệt, nhưng sau anh Kiệt hơn sáu năm (tr. 297). Anh Phạm Gia Đại tính toán sổ sách gọn gàng hơn anh Lê Anh Kiệt, Anh bảo Anh ngồi tù mười bảy năm (tr. 62, tr. 432). Anh dừng chân tại cùng một trạm chót với anh Lê Anh Kiệt, tức trại Z30D Hàm Tân, Thuận Hải. Anh ra khỏi tù gần như cùng ngày với các tướng Lê Minh Đảo, Trần Bá Di, Đỗ Kế Giai và Lê Văn Thân, dẫu rằng trên cổ áo Anh chẳng hề lấp lánh ánh sao! Anh Phạm Thành Đại rời Việt Nam cùng gia đình ngày 03.08.1993 (tr. 481).
Chi tiết ở trang 72 khiến tôi rất ngạc nhiên vì được nghe kể lần đầu. Một ngàn hai trăm sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hoà bị đưa từ Suối Máu ra Bắc năm 1977 trên tàu Sông Hương để đến trại tù Sơn La rồi bị xích lại với nhau và giải đến một khu đất trống giữa rừng núi âm u. Họ bị trói quặt vào những hàng cọc bên cạnh những hố nông đào sẵn, đối mặt với ba khẩu đại liên đạn lên nòng do khoảng hai trung đội lính trong tư thế nhả đạn. Các tử tù đồng thanh đả đảo cộng sản ầm ỉ vì họ đã hầu như đối diện tử thần. Nhưng cuối cùng có lệnh của Tổng bí thư Lê Duẩn tha cho họ sống sót. Anh Phạm Gia Đại không đích thân chứng kiến cảnh này. Một người bạn tù của Anh là Anh Hai đã kể với Anh như vậy. Anh Đại sẽ có cơ may gặp lại Anh Hai trên đất Hoa Kỳ (tr. 485).
*
Những tuần lễ vừa qua tôi có dịp đọc cùng một lúc ba thiên hồi ký mà chủ nhân là những cựu nhân viên Số 3 : Mặt trận Đại học thời Việt Nam Cộng Hoà của Bạch Diện Thư Sinh Trần Vinh cùng hai thiên hồi ký tù đày của hai anh Lê Anh Kiệt và Phạm Gia Đại.
Vào những giai đoạn lịch sử nhiều biến động, khi bánh xe thời cuộc quay với tốc độ cao, con người tự dưng có nhu cầu nhận thức kịp thời cuộc sống, có ham muốn nắm bắt các thông tin thế sự, có khát vọng ký thác mạch đập dồn dập của chính trường, có cả niềm ưu tư khắc khoải muốn theo dõi hơi thở nặng nhọc của hiện thực. là thể loại văn học đáp ứng nhu cầu đó. Nhưng từ chiều sâu tâm khảm, nhưng dưới góc độ riêng tây, con người cũng lắm khi, cũng nhiều lúc bị thôi thúc phải kể lể với tha nhân, phải thủ thỉ cùng độc giả về một phiêu lưu tình ái, về một bức tranh gia cảnh. Cả anh Lê Anh Kiệt lẫn anh Phạm Gia Đại đều cùng hành xử như vậy trong sách của mình. Bên cạnh bối cảnh rộng lớn liên quan đến sự thay đổi thái độ của phe bên kia đối với hai Anh – từ hận thù chuyển sang thông cảm, từ khinh mạn hoá thành nguỡng mộ – chúng ta cũng còn được nghe trần thuật về các chuyển biến tình cảm đôi khi đưa đến đổ vỡ với người hôn phối. Cái giá phải trả không chỉ là những tháng năm câu thúc thân thể, cái giá phải trả còn là những vết thương lòng không hàn gắn được. Thôi đành...
Cám ơn Lê Anh Kiệt. Cám ơn Phạm Gia Đại. Cám ơn Phủ Đặc Ủy. Cám ơn Số 3. Cám ơn Đời, viết hoa. 10.07.2015

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen