‘Bún bò Huế’
Một tô bún bò Huế. (Hình: Wikipedia.org)
“… Cha mạ ơi! Tụi hắn đem bán cả biển, rừng, đất đai của tổ tiên chưa đủ lòng
tham, chỉ còn một món ăn quê hương nghèo khó nghìn đời của mạ tui,
tụi hắn còn giành giật cho là tài sản của mình, đăng ký với Cục Sở
Hữu Trí Tuệ Ba Đình, ban hành quy chế quản lý và sử dụng, để từ ni, ai bán bún bò Huế
thì phải xin phép lũ hắn, mấy thằng ‘cán ngố’ Thừa Thiên-Huế!
Răng mà tham lam, độc ác tận mạng rứa Trời! Mả cha cái đồ vô hậu!”
Nếu mạ tôi còn sống, bà sẽ chửi cách Huế như vậy, sau khi nghe tin
Ủy Ban Nhân Dân Thừa Thiên-Huế “cưỡng chế” món bún bò Huế đã có tự
nghìn xưa. Hơn nữa đối với những người này, những người vô liêm sỉ,
phải dùng loa phường, loa khóm mà chửi ra rả suốt ngày như kiểu
“chửi mất gà” may ra mới đã nư!
Đối với người Việt Nam, bún bò Huế không phổ biến bằng món phở. Phở
là của cả một miền, miền Bắc, không phải của Hà Nội, Hải Phòng hay
Hải Dương. Thời còn Tây, người ta đã nói tới phở Bắc rồi, dưới cái
tên Tây là “Soupe Tonkinoise” để phân biệt những gì của Annam
(Trung Kỳ) và Cochinchine (Nam Kỳ). Nhất là sau ngày miền Bắc di
cư, chạy nạn Cộng Sản, thì phở Bắc tràn lan trong Nam, đuổi cả món
mì, hủ tiếu chạy có cờ. Ngày nay, đã mất chữ “Bắc” rồi, nói đến phở
là nói đến Việt Nam hay người Việt, khách ngoại quốc ai ăn rồi cũng
muốn trở lại.
Nói chung, bún bò Huế không phát triển phổ biến bằng phở, chẳng qua
vì khó nấu và cũng khó ăn, vì bún bò không những cay mà còn đậm mùi
sả, mùi ruốc. Bằng chứng là sau này, khi Tổng Thống Mỹ Bill Clinton
thăm Việt Nam, người ta mời ông đi ăn phở chưa chẳng ai dám mời ông
ăn thử một tô bún bò.
Bún bò là món đặc trưng của thành phố Huế, nơi có sông Hương, núi
Ngự, và cầu Trường Tiền, thành ra không ai gọi là bún bò Thừa
Thiên. Vượt qua đèo Hải Vân thì đã có món mì Quảng thống trị, đi vô
nữa rồi mới có nem Ninh Hòa…
Ngày trước, ở Huế có bún bò CLB Thể Thao, bún bò Nhà Hát Lớn, bún
bò Nam Giao, Đà Nẵng có bún bò Tổng Liên Đoàn Lao Động, Pleiku có
bún bò Nhà Xác (vì nó nằm trong bệnh viện), Đà Lạt có bún bò Cây Số
4… Không nóng, không cay không phải là bún bò. Tô bún bò nguyên lai
không có huyết, không có chả, cũng không ăn với rau, với giá hay
với bắp chuối. Những thứ đó ăn kèm theo thì con chi là mùi vị bún
bò.
Bún bò Huế còn có một cái tên gọi nữa là “bún bò giò heo.” Nói chữ
“bún bò giò heo” thì người ta bỏ chữ Huế đi theo. Cũng nên hiểu
“giò” đây là chân hay cẳng, chứ không phải “giò” là “chả” theo cách
nói của người Bắc! Người ăn có quyền lựa chọn loại giò: giò khoanh
(phần trên có thịt, có xương, có da), giò móng (phần dưới có móng,)
gió búp (chỉ có thịt và da).
Cái quê mùa của cách ăn bún bò ngon là chỉ dùng một đôi đũa mà không có muỗng, nghĩa là vừa ăn vừa húp sùm sụp, thỉnh thoảng lại cắn trái ớt
nghe cái bụp. Khi một o bán bún bò dừng gánh, múc cho bạn một tô
bún, cầm trên tay, không có một cái bàn để tô bún xuống thì làm sao
mà dùng muỗng. Cũng là món ăn dùng bún, tôi nghĩ tô bún riêu cua ở
quán đầu làng, bên cạnh gốc cây đa của miền Bắc cũng không ai dùng
muỗng.
Bây giờ người ta cho lối húp là quê mùa, mất lịch sự nhưng ăn bún,
ăn phở mà không húp là mất ngon!
Người Việt Nam có lối ăn canh là phải húp sùm sụp, “Đầu tôm nấu với
ruột bầu, chồng chan vợ húp, gật đầu khen ngon!” Người Nam ăn bánh
bèo, bánh khọt là phải “húp nước mắm,” thì người Trung ăn bún bò mà
dùng muỗng là tô bún mất ngon, phải húp.
Ở đâu cũng có quán bún bò, có tiệm bún bò, nhưng chỉ ở Huế ngày
xưa, mới có một “trung đội bún bò gánh” từ An Cựu, mỗi buổi sáng
tỏa lên thành phố Huế. Mấy o gánh bún bò phải đi chân đất để vừa đi
vừa chạy, nhưng luôn luôn mặc áo dài, đó là đặc tính truyền thống
của xứ Huế dù là buôn thúng bán bưng, như những o bán rao bánh bèo,
bánh ướt, bánh bột lọc, bán bắp nấu hay những o bán đậu hũ… Một đầu
gánh là thúng bún, gia vị, chén bát và cả một cái chậu đựng nước
rửa tô (Huế gọi là đọi). Một đầu là nồi bún đang nóng, đặt trên mấy
cục gạch có mấy thanh củi đang cháy. Một đầu gióng còn giắt một cái
đòn (ghế nhỏ) để người bán hàng có thể ngồi mà múc bún cho khách
ăn.
Bún bò gánh được coi là bún bò bình dân, giá rẻ. Ngày xưa còn nhỏ,
đã nhiều lần tôi được ăn bún bò gánh chứ chưa bao giờ được bước
chân vô tiệm bún bò.
Trong hồi tưởng, những tô bún bò gánh của những ngày xa xưa ấy, sao
mà ngon đến thế, mà năm thì mười họa mới được ăn một lần. Tô bún bò
gánh quá khiêm nhường, miệng tô thì to mà đít tô thì nhỏ, húp mấy
miếng là đã hết. Miếng thịt cắt nhỏ, cái móng heo còn xẻ đôi, thèm
thuồng thật nhưng làm gì có được tô thứ hai.
Lớn lên rồi, đi tứ phương, vẫn không thấy tô bún bò nào ngon bằng
tô bún bò gánh của o Năm, mụ Ba… trong ngõ ngách dĩ vãng ngày xửa
ngày xưa. Có người nói đó là cảm giác không thật, chẳng qua vì ngày
xưa đói, nghèo mà thèm ăn, nên cái gì cũng ngon, cũng thơm, đậm đà
khua rộn ràng con mắt đói nhìn, lỗ mũi thở sâu và cái lưỡi hít hà.
Có thật vậy không? Xin hãy cho tôi lại những ngày tháng cũ.
Bây giờ không ai còn cho tôi một chút riêng tư, vạt đất sau hè là của nhà nước, ngọn rau, củ sắn là thuộc hợp tác
xã, miếng thịt, con cá là đồ quốc doanh. Người ta cưỡng chế cả đất
đai, ruộng vườn, ao hồ sông rạch, gọi là cướp ngày có dùi cui, súng
đạn. Bây giờ trong văn phòng có máy lạnh, vô công rồi nghề, họp
hành cho lắm, mới nẩy ra cái sáng kiến “ích quốc lợi dân,” nghìn
năm chưa ai nghĩ ra, là lấy cái món ăn của ông cha làm vật sở hữu
của phe đảng mình.
Chỉ là một món ăn dân dã, mà họ tiếm đoạt, coi như đây là một sở hữu trí tuệ, mà họ làm chủ, ai dùng thì phải làm đơn xin phép, như đã từng có những lá đơn
xin đi ở tù, xin tạm vắng, xin tạm trú.
Tờ giấy làm ra từ thớ thịt của gỗ rừng, nhưng lá rừng không ghi hết tội ác của họ.
Đây chỉ mới là bún bò Huế, món trí tuệ sở hữu của Ủy Ban Nhân Dân
Thừa Thiên-Huế, rồi đây còn bánh canh Nam Phổ, bánh bèo Nam Giao…
cho các huyện ủy địa phương mấy nơi này.
“Mạ ơi! Còn một món cơm Âm Phủ, thôi thí cô hồn cho họ luôn cho hợp tình, hợp lẽ, mạ hí!”
__._,_.___
Posted by: Khanh Nguyen-Kim <knguyenkim@hotmail.com>
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen