AnLoc July 3, 1972 - REINFORCEMENTS WELCOMED
Bỗng chốc thị trấn nhỏ về cực đông-nam phần cuối con đường 13 biến
thành địa danh vang dội toàn thế giới... Guernica, Arden, Berlin
của Thế Chiến lần Hai không còn ý nghĩa khi so với thị trấn bề dài
1800 thước và bề ngang từ cửa Phú Lổ đến hàng rào phòng thủ tiểu
khu đo đúng 1000 thước. Trên diện tích bé nhỏ nầy, lại nhỏ hơn nữa
của những ngày “tử thủ”, khi thành phố “co” lại với khoảng 900 thước bề dài còn lại. Một ô vuông cây số
hứng chịu gần 60 ngàn quả đạn, đạn đại bác bắn tập trung từ mười vị
trí trở lên trong 100 ngày vây khốn. Thế nhưng, An Lộc đã chịu đựng
được. Quân và Dân ở An Lộc đã chịu đựng được. Chịu đựng- Sức mạnh
tự nhiên không bờ, không đáy. Với nó, trong đó, Người Việt ngụp lặn
miệt mài để tồn tại.
Sống! Thượng Đế ban món quà hiếm hoi quý giá này cho dân tộc ta quá
khó khăn, hẹp lượng. Chỉ được sống, đám dân và lính ở An Lộc đã
phải căng mình hứng chịu dài cơn bão săm sắp tiếng nổ và mảnh thép,
trong ba tháng. Họ lên đến những “đỉnh” đau đớn chóng mặt, như từ một độ cao hai trăm thước, người mẹ sẩy
tay đánh rơi đứa con khi trực thăng chao mạnh. Cái chấm nhỏ bé tội
nghiệp rơi dần dần vào một cõi xa xăm mất hút...Không nghe được
tiếng động của thân thể trẻ thơ đập mạnh trên đất đá. Không có
tiếng thét bi ai của người mẹ mất con... Chỉ âm động phần phật cánh
quạt phi cơ và gió bạt trên không gian im lặng. Từ đỉnh cao hai
trăm thước đến vực sâu hai thước giữa lòng đất đỏ lạnh tanh, người
cha bình thản ngồi xếp ngay ngắn, thẳng hàng hình hài năm đứa con
và người vợ, sau khi đã đặt tay chân đúng vào thân thể của mỗi
đứa.
Nỗi đau đớn dài như con đường 13 từ An Lộc về Chơn Thành. Lai Khê,
Bình Dương, An Lộc, Lộc Ninh... Tên đặt ra nghe sao quá thê thảm,
tội nghiệp, làm gì có “bình an” nơi miền Đông tàn khốc này... Tất
cả chỉ là ước vọng. Nói thật hơn, chỉ là những hư vọng khó có lần
hiện thực- Ảo giác mù mờ khi con người đã đến đáy khốn cùng. Chạm
tay sự chết.
Trong qui ước truyền tin quân đội, chữ A được đánh vần là “Alpha” hay “Anh Dũng”.An Lộc cũng bắt đầu với chữ A, thế nên tôi gọi “An Lộc là Anh Dũng”; tĩnh từ này đã được dùng quá nhiều, đến độ nhàm chán, nhưng ngoài
nó ra không còn một danh từ nào xác thực và đúùng đắn hơn. Phải, An
Lộc là Anh Dũng. Chiến đấu ở An Lộc- Sống ở An Lộc- Chết ở An Lộc -
Tất cả đều trùng trùng tràn ngập, vây kín, kích động bởi tính chất
anh hùng. Tôi không nói quá lời, với chân thật của người cầm bút và
tấm lòng giản dị của người lính, xin xác nhận lại một điều: An Lộc
- Anh Dũng. Yếu tính của thành phố, người và sự kiện nơi An Lộc là
tỉnh từ giản dị đầy đủ kia.
Mười năm kinh qua trận địa, bao nhiêu trang sách về binh sử đã được
đọc, tất cả đều bị An Lộc vượt xa, vượt một tầm quá lớn mà không
một trận chiến nào có thể bén gót được. Kiến thức quân sự, ý niệm
chiến tranh, tất cả bị đổ nhào vô nghĩa, vô dụng với An Lộc. Chắc
chắn như thế, nếu ai hằng đến sống, chết cùng với nơi chốn ấy một
lần. Những “huyền thoại” về An Lộc đã được khai thác, nhưng không hết. Những người kiệt
liệt của An Lộc đã được nhiều nhắc nhở nhưng chưa đủ. Tôi nối tiếp
công việc này vì An Lộc không những chỉ có Tướng Hưng với các Trung
Đoàn 8, 9, 48, 52 của Sư Đoàn 5 Bộ Binh; Đại Tá Huấn với Liên Đoàn
81 Biệt Kích Dù; Liên Đoàn 3 BĐQ, và Đại Tá Nhật với thành phần cơ
hữu Tiểu Khu Bình Long. Ngoài những lực lượng này, còn có Lữ Đoàn I
Nhẩy Dù, đơn vị tham chiến từ ngày 7-4, bắt tay An Lộc lần một vào
ngày 16-4 và lần thứ hai sau trận đánh trên tất cả các trận đánh,
Tiểu Đoàn 6 Dù “clear” hai cây số còn lại vào đến Thanh Bình (hay
đồn điền Xa Cam) trong “bốn mươi lăm phút chiến trận”.An Lộc được “bắt tay” lần thứ hai lúc 17g45 ngày 8 tháng 6 năm 1972.
. . .
Vượt hẳn hết ý niệm từ trước, bỏ xa trí tưởng tượng đã xếp đặt, An
Lộc không “hư” từng khu, không đổ từng khóm, An Lộc vỡ nát, vỡ tan tành, vỡ
vụn...Không còn sự sống trên mặt đất, không còn dấu vết người trên
mặt đất . . .
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen