Đoàn Dự
THƯA QUÝ BẠN, hồi tôi còn nhỏ, mặc dầu là thời Pháp thuộc nhưng có
nhiều sách hay dùng cho trẻ em, thường là truyện cổ tích viết bằng
thơ lục bát hay song thất lục bát – hai câu 7 chữ rồi đến câu lục
(6 chữ) và câu bát (8 chữ), có vần có điệu, ý nghĩa rất cao: “Thầy Mẫn Tử rất đường hiếu nghĩa. Xót nhà huyên quạnh quẽ đã lâu.
Thờ cha sớm viếng khuya hầu. Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng nàn.
Trời đang tiết đông hàn lạnh lẽo. Hai em em thời kép áo mền bông.
Chẳng thương chút phận long đong. Hoa lau nỡ để lạnh lùng một
thân…”. Rồi truyện Tấm Cám, truyện Trê Cóc, truyện Thạch Sanh-Lý Thông,
truyện Hoàng Trừu, truyện Phạm Công-Cúc Hoa…, truyện nào cũng nhiều
ý nghĩa, dạy các trẻ em đạo đức và nghĩa sống ở đời. Riêng truyện
Bích Câu Kỳ Ngộ (tức cuộc gặp gỡ kỳ lạ tại nơi có cái ngòi nước
biếc; bích là màu biếc, câu là cái ngòi, con rạch, con kênh), cũng
bằng thơ lục bát, lời thơ trong sáng, trau chuốt nhưng lại khác hẳn
so với các truyện nói trên. Đây là truyện tình cảm dành cho… người
lớn chứ không phải dành cho trẻ em. Anh chàng thư sinh họ Trần, tên
Tú Uyên nghèo nàn, chưa đậu đạt gì, gặp được nàng tiên tên Giáng
Kiều, hai bên yêu thương nhau, kết thành vợ chồng, sinh được đứa
con trai thông minh đĩnh ngộ đặt tên là Chân Nhi. Lấy được vợ tiên,
chàng chẳng phải lo gì cả, vậy là hạnh phúc lắm rồi. Nhưng dần dần
chàng hóa rượu chè be bét, nhiều khi uống rượu say khướt đánh cả
vợ. Nàng khuyên nhủ nhiều lượt không được, buồn bực bỏ về trời,
chàng hối hận suýt tự tử…
Trước đây nhiều người kể cả GS Dương Quảng Hàm và GS Linh mục Thanh
Lãng đều cho rằng truyện Bích Câu Kỳ Ngộ là của một tác giả khuyết
danh. Nhưng theo các nhà nghiên cứu như Trần Văn Giáp, Nguyễn
Phương Chi, Hoàng Hữu Yên, Phạm Ngọc Lan thì người sáng tác tập
truyện thơ này tên là Vũ Quốc Trân, người làng Đan Loan, huyện Bình
Giang, tỉnh Hải Dương, sống tại phường Đại Lợi (một đoạn thuộc phố
Hàng Đào, Hà Nội ngày nay) vào khoảng giữa thế kỷ thứ 19 dưới triều
vua Tự Đức (1829-1883), cùng thời với Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá
Quát. Ông là người rất hay chữ nhưng đi thi mấy khoa đều chỉ đậu tú
tài. Có lẽ vì vậy ông buồn tình, thất chí, đâm rượu chè, sau đó
sáng tác truyện Bích Câu Kỳ Ngộ để nói lên sự ăn năn hối lỗi của
mình đối với người vợ mà ông biết ơn, coi bà như “nàng tiên” Giáng
Kiều đã cứu giúp anh chàng Tú Uyên ra khỏi sự mê muội của rượu chè.
Sau đây xin mời quý bạn coi tóm tắt truyện Bích Câu Kỳ Ngộ cổ điển
thời xa xưa, sau đó chúng ta thưởng thức truyện “Tân” Bích Câu Kỳ
Ngộ cũa Vũ Quang, một tác giả mới, do Đoàn Dự đóng góp, biên tập
thêm cho được mới hơn. Đây, xin mời quý bạn thưởng thức…
Bích Câu Kỳ Ngộ
Vào thời Hồng Đức nhà Lê, có một người học trò nghèo mồ côi cha mẹ,
trọ học ở phường Bích Câu phía Nam thành Thăng Long, rất hay chữ,
tên là TrầnTú Uyên.
Vào một ngày mùa xuân, chùa Ngọc Hồ mở hội Vô Già, thiện nam tín nữ
ở kinh đô và bốn phương tụ họp lại rất đông. Tú Uyên cũng không bỏ
lỡ cơ hội để tìm người trong mộng. Chàng vui chân đi quanh quẩn đến
chiều và ngồi bên gốc đa gần chùa. Bỗng một chiếc lá đa bay đến
trước mặt, chàng nhặt lên xem thì thấy mặt sau có đề một bài thơ.
Tú Uyên ngạc nhiên tưởng có người nào trên lầu ném xuống. Chàng
lánh vào một chỗ để xem đó là ai. Nhưng nhìn mọi nơi mãi cũng chẳng
thấy gì cả. Đang lúc ngơ ngác, chàng bỗng thấy một đám người từ
trong chùa đi ra, trong đó có một thiếu nữ xinh đẹp như tiên. Thấy
nàng liếc mắt nhìn mình, chàng tiến lại bắt chuyện. Hai người vừa
đi vừa vui vẻ chuyện trò, lòng Tú Uyên như mở hội. Nhưng khi đến
Quảng Văn thì “người tiên” bỗng biến mất. Tú Uyên ngơ ngẩn mãi rồi
mới trở về nhà.
Từ đấy, chàng ngày đêm mơ tưởng đến bóng dáng người thiếu nữ, không
thiết gì đến việc ăn uống, học hành.
Nghe người ta bảo là đền Bạch Mã rất thiêng, chàng liền đến xin quẻ
thẻ rồi ngủ đêm lại đền để cầu mộng. Đêm hôm ấy, vị thần giữ đền
hiện ra trong giấc mơ của chàng và nói rằng:
– Này chàng trẻ tuổi kia, sáng mai hãy đến cầu Đông, ta sẽ cho biết
một tin rất tốt.
Tú Uyên vô cùng mừng rỡ, như vậy là chàng sẽ có cơ may gặp lại
người trong mộng…
Hôm sau, chàng y hẹn đến cầu Đông, nhưng đợi mãi không thấy ai cả.
Cuối cùng chàng mới gặp một ông già bán tranh, ông ta mời chàng mua
một bức tranh tố nữ. Chàng mở ra xem thì không ngờ người tố nữ
trong tranh trông chẳng khác gì người mà chàng đã gặp hôm trước.
Quá mừng rỡ nên Tú Uyên mua ngay bức tranh mà không cần hỏi thăm
xuất xứ từ đâu nữa. Dù không gặp được người thật, nhưng người trong
tranh cũng đủ làm cho chàng hoan hỉ trong lòng.
Tú Uyên muốn lúc nào cũng được nhìn ngắm chân dung người đẹp, nên
chàng treo bức tranh bên cạnh chỗ ngồi để khi học hay khi thưởng
thức chén trà ngon đều nhìn ngắm nàng. Thậm chí khi ăn cơm chàng
cũng đem ra hai cái bát, hai đôi đũa rồi mời người thiếu nữ trong
tranh cùng ăn giống như đối với người thật.
Mỗi lần say đắm ngắm tố nữ trong tranh, Tú Uyên ngạc nhiên khi thấy
tố nữ cũng say đắm nhìn chàng, còn lúc chàng thả lời ong bướm thì
thấy hai má nàng đỏ bừng như có ý thẹn.
Một hôm, khi Tú Uyên đi học về thì thấy giữa bàn đã dọn sẵn một mâm
cơm có thức ăn ngon, khác với cơm rau thường ngày. Tuy chưa hiểu là
của ai cho nhưng đói bụng, chàng cũng ngồi vào ăn ngon lành. Chàng
không ngờ thiếu nữ trong tranh cũng nhìn chàng một cách trìu mến,
mãn nguyện.
Tiếp tục những hôm sau, chàng luôn được chăm sóc như vậy, cơm canh
được dọn sẵn trên bàn. Tú Uyên vừa mừng vừa lo, không hiểu tạo sao
mình được ưu đãi như thế.
Một hôm khác chàng giả vờ đi học, được nửa đường thì quay trở về,
núp ngoài cửa nhìn vào. Chợt thấy tố nữ từ trong tranh bước ra, dọn
dẹp nhà cửa rồi xuống bếp làm cơm. Vậy là chàng đã biết rõ nguyên
nhân, liền đột ngột bước vào cầm lấy tay nàng:
– Sao nàng nỡ để tôi trông đợi mỏi mòn đến thế? Bây giờ đã gặp nhau
đây, tôi nhất quyết không để cho nàng trở lại trong bức tranh nữa
đâu.
Thiếu nữ e thẹn, cúi mặt mỉm cười không dám nhìn chàng. Tú Uyên bèn
tháo bức tranh trên tường, xé nát để nàng không còn nơi trú ẩn.
Thiếu nữ khẽ trách:
– Sao chàng ác thế, thiếp đã đến đây rồi thì làm sao không vâng lời
chàng.
Nàng cho biết mình là tiên nữ tên là Giáng Kiều, vốn có duyên nợ
với chàng nên xuống trần kết làm đôi lứa. Tú Uyên không còn gì vui
sướng hơn nên bèn thề sẽ yêu thương nàng trọn đời.
Thế rồi hai người thành thân với nhau với sự chứng kiến của các bạn
bè của cả hai bên.
Nhưng từ ngày có vợ đẹp, Tú Uyên chẳng màng gì đến việc học hành.
Đặc biệt là chàng thích uống rượu và ăn ngon. Giáng Kiều khuyên can
thế nào cũng không được.
Ba năm trôi qua, Tú Uyên không hề lai vãng đến trường. Dần dà,
chàng hóa nghiện rượu và đã uống là uống say khướt, không còn biết
trời đất gì nữa. Thậm chí nhiều khi chàng còn đánh mắng vợ. Giáng
Kiều buồn lắm song cũng ráng chịu.
Một hôm Tú Uyên từ tửu quán khật khưởng trở về nhà. Giáng Kiều đỡ
chồng vào giường rồi nhân lúc chàng ngủ, nàng bèn bay về thượng
giới.
Khi Tú Uyên tỉnh rượu, không thấy vợ đâu, chàng lấy làm hối hận
lắm. Suốt một tháng trời chàng bỏ ăn bỏ ngủ, kêu khóc thảm thiết.
Bạn bè hết lời khuyên giải nhưng chàng cũng không giảm được nỗi
buồn. Một lần, giận thân, chàng toan từ giã cõi đời. Nhưng chàng
vừa treo cổ lên xà nhà thì bỗng có trận gió thoảng đưa mùi hương
đến, dây đứt và chàng ngã bịch xuống đất. Đó chính là Giáng Kiều đã
đến cứu chàng. Tú Uyên vừa mừng vừa thẹn, thề xin chừa rượu và chăm
lo học hành. Hai vợ chồng lại sum họp đầm ấm như xưa.
Chẳng bao lâu, Giáng Kiều sinh được một con trai, đặt tên là Chân
Nhi. Chân Nhi lớn lên thông minh đĩnh ngộ, học đâu nhớ đấy.
Một đêm nọ bỗng có hai con hạc từ trên trời bay xuống, đến đón hai
người trước sân. Hai vợ chồng dặn dò con ở lại học hành rồi cưỡi
hạc bay lên trời. Về sau con của hai người đỗ đạt, làm quan vinh
hiển…
Truyện “tân” Bích Câu Kỳ Ngộ
Trần Sinh, người miền Trung, con nhà nghèo, lý lịch không tốt không
xấu, nhờ thông minh lại chuyên cần học tập nên thi đậu vô Đại học
Bách khoa Sài Gòn hệ chính quy, được học bổng toàn phần tức không
phải đóng học phí.
Lần đầu bước chân vào một trường đại học lớn, do bỡ ngỡ trước những
thủ tục hành chánh nên Sinh không xin được vô Ký túc xá, đành bấm
bụng nhịn bớt chi tiêu, mướn một căn phòng nhỏ ở gần cầu Trương
Minh Giảng. Dòng kênh đen thui thường bốc mùi thum thủm, được dân
bản địa gọi nôm na là kinh nước đen.
Trần Sinh với tâm hồn mơ mộng của tuổi sinh viên, gọi cái kinh nước
đen đó là… “Bích Câu” (Bích là màu biếc, Câu là dòng kênh hay cái
ngòi nước).
Tuy thuê phòng trọ nhưng Sinh lại ăn cơm ở bếp tập thể tại Ký túc
xá, bởi vì bữa cơm sinh viên tuy đạm bạc nhưng dù sao cũng phù hợp
với túi tiền kẻ sĩ trong thời đại gạo đem xuất khẩu được tính theo
đô la. Căn phòng trọ 2m x 1m80 chỉ vừa đủ để kê một cái giường nhỏ,
một chiếc ghế liên lạc với miếng gỗ nhỏ hình chữ nhật dùng làm
chiếc bàn cá nhân. Trên vách gỗ đóng đinh treo mấy bộ quần áo cũ
chứ cũng chẳng có tủ hay va ly gì cả. Phòng chật quá và cuộc sống
sinh viên ở trọ thì làm gì có tủ hay va ly. Mái tôn thấp lè tè, lại
bị “cóc gặm”, mùa nắng nóng toát mồ hôi, mùa mưa thì dột, ban đêm
cũng có khi lạnh nhưng dù sao cũng là nơi trọ rẻ tiền cho Sinh đi
về, dùi mài bài vở.
Một buổi chiều cuối năm, mưa gió não nề, Sinh đang gò lưng đạp con
ngựa sắt leo lên dốc cầu vì bị mưa tạt thì chợt nghe có tiếng rên
lẫn trong tiếng gió. Liếc mắt nhìn, Sinh thấy bên vệ cầu có một ông
cụ già đang khoác áo mưa ngồi co ro. Sinh bèn dừng xe đạp, bước
xuống, một tay dắt xe, một tay dắt ông cụ sát vô lề đường. Ông cụ
run rẩy kể lại chuyện mình, nước mắt hòa lẫn nước mưa ướt đẫm gương
mặt nhăn nheo: “Tui ở ngòai Trung, trước đây cũng có con có cháu,
nhà cửa tuy không lớn nhưng cũng sống được. Trận bão năm đó làm tan
nát gia đình. Con trai tui làm nghề đánh cá bị mất tích với các bạn
trên biển. Con dâu mần ma chay, mộ gió cho chồng xong, ít lâu sau
gởi ba đưa con cho ông bà nội rồi vô Sài Gòn kiếm sống. Mấy tháng
đầu nó còn gởi tiền về nuôi con, sau đó biệt tăm không thấy gì nữa.
Vợ chồng tui lo quá, bả ở lại coi nhà, trông nom các cháu, còn tui
lặn lội vô đây định kiếm con dâu coi nó mần ăn ra sao, hay đã bị
người ta lừa dối, làm hại mất rồi. Nghe nói nó ở khu kinh nước đen
gần cầu Trương Minh Giảng, tui lang thang đi tìm hoài nhưng không
thấy. Ban ngày đến các xóm hỏi thăm người ta, ban đêm thì ngủ nhờ
trên các sạp trong chợ. Bị kẻ gian lấy trộm hết tiền, tui không còn
đồng nào, hàng ngày phải lây lất đi ăn xin để kiếm miếng ăn của
khách qua đương…”.
Nghe ông cụ tâm sự, nhất là cụ lại là người cùng quê hương miền
Trung, Sinh rất cảm động. Trong túi chỉ còn đủ tiền mua hai phiếu
ăn cơm trưa và chiều trong ngày, cộng với ít tiền để dành, hễ xe
đạp hư thì có tiền sửa. Không lẽ lại nhịn mua phiếu ăn để biếu cụ
cả? Đang sức trai, lại là sinh viên, ban đêm phải thức để lo học
hành, bài vở, đói bụng thì chịu sao nổi? Sinh đành nói thật với cụ
rồi chỉ giữ lại đủ tiền mua hai phiếu ăn, còn lại bao nhiêu biếu
hết cho cụ. Ông lão từ chối không nhận. Sinh giải thích rằng mình
có tiền đi dạy kèm trẻ, mỗi tháng cũng được chút ít, một vài ngày
nữa nhà chủ sẽ trả, cụ đừng lo. Bấy giờ ông cụ mới nhận. Sinh chào
cụ rồi đi.
Sinh mới ngồi lên chiếc xe đạp thì bỗng cụ gọi lại: “Cậu, cậu…”,
chàng rất ngạc nhiên. Lúc đó đã ngớt mưa, cụ bước tới móc trong bị
ra mấy cuốn lịch cuộn tròn đựng trong chiếc bao ny lông – loại lịch
khổ lớn mỗi cuốn một tờ duy nhất dùng cho cả năm – in hình cô gái
bận bộ đồ tắm rất đẹp đứng trước biển nhưng thời gian đã qua từ
lâu, tấm lịch trở thành “quá đát”, dùng hay không dùng thì cũng thế
thôi. Cụ mở bao ny lông lấy tặng cho Sinh một tấm và nói rằng bữa
cụ đi ăn xin trong một tiệm sách, hình như đại lý in lịch, ông chủ
tiệm cho cụ 20 ngàn đồng rồi chợt nhớ, bảo cụ: “Có ít tờ lịch đẹp
lắm nhưng bán không hết, vứt đi thì tiếc mà giữ lại cũng chẳng dùng
làm gì. Ông cụ cầm giùm, hễ thấy ai thích lịch đẹp thì tặng người
ta một tấm về nhà cho người ta treo…”. Ông cụ thấy lịch đẹp thật
nên nhận, cả xấp có lẽ cỡ chừng mười cuốn, cụ đã cho bớt, còn lại
vài cuốn bây giờ định tặng Sinh một cuốn để “đền ơn đáp nghĩa” Sinh
đối xử tốt với cụ. Sinh bật cười, phòng trọ của mình nhỏ xíu trong
khi tấm lịch khổ lớn, hình cô gái mặc bộ đồ tắm đứng trước biển quá
đẹp, trông thật tự nhiên, tươi trẻ có lẽ còn hơn cả… hoa hậu, đem
về phòng treo thật không xứng. Sinh chưa kịp chối từ thì ông cụ đã
cuộn tấm lịch lại, trao vào tay chàng: “Tui nghèo quá, chẳng có gì
đền đáp lại lòng tốt của cậu. Mong cậu nhận cho đặng tui đỡ tủi…”.
Ông cụ tha thiết năn nỉ khiến Sinh phải nhận. Chàng cầm tờ lịch đã
cuộn trên tay, chào cụ rồi ngồi lên xe, tiếp tục tới trường.
***
Tờ lịch treo lên vách ván được khoảng một tuần lễ thì Sinh phát
hiện ra căn phòng trọ rẻ tiền có gì rất lạ: sạch sẽ hơn, được xếp
đặt gọn gàng, ngăn nắp. Hình như quần áo Sinh thay ra vứt bừa bộn
đã được giặt và treo lên đàng hoàng. Trên nền phòng có dấu vết của
cái chổi quét qua. Đôi khi Sinh về sớm lại thấy trong phòng thoang
thoảng mùi thơm nhè nhẹ. Tuy thế, tuổi trẻ vốn vô tư, Sinh chỉ
thoáng nghĩ rồi lại tập trung cho việc học, nhất là cái dạ dày còn
mấy hôm nữa mới hết tháng mà tiền mua phiếu ăn thì sạch rồi, phải
làm sao cho qua kỳ “giáp hạt” này? Thật ra trong giới sinh viên có
những cách giải quyết rất “trí tuệ”: 3 người chỉ ăn có 2 phần cơm
tức mua có 2 phiếu mỗi bữa. Nhưng chẳng lẽ cứ “ăn theo” bạn suốt
mấy ngày liền, khiến bạn cũng “đọi”? Hơn nữa, mỗi phần ăn dành cho
mỗi phiếu ở Ký túc xá cũng chẳng no đủ gì, chẳng lẽ bắt các bạn
phải chia sẻ?
Một buổi trưa nắng gắt, mùi kinh nước đen bốc lên khó chịu. Sinh
nhăn mặt, đạp xe lên dốc cầu, một tay xoa cái bụng lép kẹp: “Thôi
kệ, lát nữa về phòng uống ly nước lọc cho đỡ đói, nằm ngắm “người
đẹp” trong tấm lịch rồi ngủ quên đi cũng được. Buổi chiều thì sẽ
tính sau, có lẽ chạy đến nói với bà chủ chỗ dạy kèm trẻ ứng trước
ít lương”.
Tuy nhiên, vừa dựng chiếc xe đạp ngoài hiên, mở cửa phòng bước vào,
Sinh bỗng ngạc nhiên: Trên giường, đống chăn màn đã được xếp lại
gọn ghẽ, ngăn nắp, còn trên chiếc bàn cá nhân thì có một ổ bánh mì
thịt bọc giấy ràng dây thun, đựng trong chiếc bao ny-lông và một
bịch nước mía, đá chưa tan hết, trông rất hấp dẫn.
“Của ai thế nhỉ? Chắc của người khác nhưng mình mắc đi học, làm sao
họ có chìa khóa mở cửa vào được trong phòng?”. Sinh đoán không ra,
sau đó lại nghĩ: “Hay của đứa bạn nào tinh nghịch, nó thấy mình
treo tấm lịch hình cô gái đẹp nên nó chọc ghẹo, mua ổ bánh mì thịt
và bịch nước mía với ý là của “người đẹp” hiện ra tặng cho hàn sĩ.
Hễ mình ngốc nghếch kể lại chuyện đó tụi nó sẽ cười cho vỡ bụng”.
Nhưng Sinh nghĩ: “Vô lý, bạn mình cũng mắc đi học, chẳng đứa nào
rảnh để làm chuyện đó. Hơn nữa tụi nó cũng là con trai, đứa nào
cũng làm biếng, ngủ dậy còn chả thèm gấp mùng mền huống chi lại xếp
ngăn nắp cho mình thế kia!”. Cuối cùng, đang đói bụng. Sinh chậc
lưỡi: “Thôi kệ, muốn của ai thì của, mình cứ ăn cái đã, mọi chuyện
tính sau!”. Chàng ăn một cách ngon lành và hút hết bịch nước mía,
cái bụng khỏi “làm reo” nữa!
Kể từ hôm ấy, mỗi ngày Sinh đi về phòng trọ trên chiếc bàn cá nhân
luôn có sẵn thức ăn: khi gói xôi mặn, lúc ổ bánh mì thịt, khi chiếc
bánh bao, đôi khi lại có một hai trái chuối, bịch nước mía hay vài
cục kẹo.
Trần Sinh liếc nhìn “kiều nữ” mặc bộ đồ tắm đứng trước biển trên tờ
lịch, mỉm cười nhớ lại chuyện anh chàng Tú Uyên gặp nàng Giáng Kiều
trong truyện Bích Câu Kỳ Ngộ. Không lẽ thời đại này còn có giai
nhân hiện ra săn sóc hàn sĩ? Nhưng nếu không phải “giai nhân” thì
ai, ai hàng ngày vẫn để đồ ăn lên chiếc bàn cá nhân giúp đỡ chàng?
Một hôm Trần Sinh nhất định phải tìm cho ra “nàng tiên” đã xuất
hiện trong căn phòng trọ của chàng những lúc chàng đi vắng. Sinh
không tin cô gái “đứng trước biển” với bộ đồ khoe thân hình đẹp lồ
lộ lại có tâm hồn mơ mộng mang tính chất tiểu thuyết trữ tình như
vậy. Chàng hy vọng “nàng” là một cô gái con nhà nghèo, ăn mặc đơn
giản với mái tóc dài, gương mặt dịu dàng thùy mị và… đẹp. Đàn ông
ai chả mơ ước mình có người yêu đẹp va dịu dàng thùy mị? Ủa, đẹp
nhưng nghèo thì làm sao có tiền mua bánh mì, bánh bao, nước mía cho
“chàng”? Bởi vậy trong truyện cổ tích, những người đẹp như Giáng
Kiều thường là “nàng tiên”, họ có phép lạ nên không bị nghèo.
Một sáng đẹp trời, nắng vàng trải nhẹ trên dòng kinh nước đen, Sinh
ra khỏi nhà trọ một lúc giả bộ đi học như mọi ngày rồi đạp xe quay
trở về. Cửa phòng trọ khép hờ, bên trong có tiếng chổi quét nhà và
tiếng hát nho nhỏ vọng ra: “Ngày xưa xa xôi em rất yêu màu tím. Ngày xưa vô tư em sống trong
trìu mến…”. Thôi đúng rồi, đúng là “nàng tiên” rồi. Trần Sinh đẩy cửa bước
vào. “Nàng tiên” đang quét nhà, đứng ngỡ ngàng với mái tóc cắt
ngắn, với đôi mắt to và đen lay láy. Tự nhiên nàng đỏ mặt thẹn
thùng vì “bị” người khác bắt gặp mình hát mặc dầu nàng hát khá hay,
giọng nàng trong như tiếng suối.
– Cô hát hay lắm cô Giáng Kiều ạ.
– Ủa, em đâu phải Giáng Kiều? Em tên Ngọc Lan anh biết rồi mà!
– Kệ, tôi cứ gọi cô tên Giáng Kiều còn tôi tên Tú Uyên. Chúng ta
gặp nhau trên cầu Bích Câu. Cô có biết truyện Bích Câu Kỳ Ngộ
không?
“Nàng tiên“Giáng Kiều bật cười:
– Hông, em chỉ biết cầu Trương Minh Giang khu kinh nước đen. Ở đấy
có anh chàng Tú Uyên sinh viên Đại học Bách Khoa nghèo quá trời quá
đất, em phải mua bánh mì cho ảnh ăn kẻo ảnh đói bụng, đêm không học
được.
Trần Sinh cũng cười:
– Cám ơn em. Vậy mà anh không nghĩ ra vì không thể tưởng tượng đấy
là đồ “tiếp tế” của cô út xinh đẹp con bà chủ nhà.
– Em mà xinh đẹp cái gì, xấu òm!
– Xấu được như em thì thiên hạ không còn ai đẹp nữa. Sau này anh ra
trường…
– Em cũng sắp ra trường, làm giáo viên tiểu học và sẽ để dành tiền,
chúng mình… kết đôi với nhau, được không anh?
– Được chứ, anh rất mong được như vậy.
Đúng thế, còn một năm nữa thì Ngọc Lan ra trường và trở thành giáo
viên tiểu học. Nàng là con gái bà chủ nhà cho thuê phòng trọ nên
biết rõ Trần Sinh là chàng sinh viên nghèo (sinh viên thì ai chả
nghèo!) nhưng học Đại học Bách Khoa, sẽ ra kỹ sư, siêng năng, cần
mẫn, tính nết lại vui vẻ và giàu tình cảm. Nàng thầm yêu chàng từ
lâu nên ngầm giúp đỡ để chàng yên tâm học hành.
Con gái thời buổi này khôn thế đấy, trồng cây từ lúc hạt chưa nẩy
mầm. Với ân tình đó, “Tú Uyên” sẽ biết ơn “Giáng Kiều” và sẽ… không
bao giờ uống rượu để có lúc phải ăn hối lỗi như trong truyện Bích
Câu Kỷ Ngộ. Hy vọng như vậy.
Đoàn Dự
__._,_.___
Posted by: "Patrick Willay" <pwillay@orange.fr>
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen