GS Nguyễn Đăng
Trúc
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào! (ĐTTT, 489-490).
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai ! (ĐTTT, 1247-1248)
Nỗi xót xa đó của Kiều
trong cuộc sống tha hương, hẳn nhiều người trong cộng đồng người Việt hải ngoại
chúng ta đã từng cảm nhận. Nhưng, nếu đại thi phẩm của Nguyễn Du không
phải chỉ là câu truyện tình cảm, mà còn là một sứ điệp văn hóa, thì hoàn
cảnh xa quê của chúng ta hôm nay không chỉ là khổ đau, nhưng còn là cơ duyên để
tiếp cận được một sứ điệp về ý nghĩa và thân phận con người.
Trong khổ đau của kẻ
xa nhà, chúng ta khiêm tốn nhớ lại những bậc thánh hiền, những vị đã từng
chuyển đạt những chân lý hướng dẫn nếp sống văn hóa của chúng ta. Chúng ta sẽ
ngạc nhiên khi nhận ra rằng đời sống và chân lý mà các vị ấy chuyển đạt luôn
gắn liền với hoàn cảnh lưu đày nơi thân phận làm người.
Thái tử Tất Đạt Đa đã
từ biệt quê nhà và cung điện. Và nơi vùng đất xa lạ, sức mạnh Ánh Sáng bên kia
bờ đã thốt nhiên đến với kẻ tha hương, tôn vinh người ấy thành Phật, dẫn đưa
người giác ngộ đến gặp muôn người.
Lão Tử cảm hứng được
Ánh Sáng kỳ bí vượt lên trên ánh sáng trí năng hiểu biết của « thiên
hạ », của bất cứ ai chỉ thấy việc trước mắt. Ngài mặc nhiên giới thiệu
mình là người của vùng đất xa lạ, theo lối nói thi ca của các bậc thánh hiền
còn gọi là « Cõi Bên Kia Bờ », là «Tâm duy vi », hoặc là
« Thời Xa Xưa ». Đạo, hay nói cách khác là Con Đường hoàn thành
nhân tính mà Ngài có phận vụ truyền đạt, không còn là tập tục nhất thời,
lề luật giả tạo do trí óc và ý muốn chướng khí của con người bày ra, nhưng
là Đạo Thường được soi dọi bởi Ánh Sáng của vùng đất « tha hương, xa
lạ » nầy.
Khổng Tử không tự sáng
chế, không tôn vinh nhân nghĩa do con người tùy nghi định đoạt, không cổ súy
« cái tâm duy nguy » mà mỗi người tự tìm kiếm theo sở thích. Nhưng,
Ngài chỉ truyền lại sứ điệp về ý nghĩa nhân tính của « Đạo Tâm duy
vi », của « Đạo Thời Thánh Hiền Ngày Xưa », Thời mà tai
con người không nghe được, mắt con người không thấy được.
Hầu như đồng thời với
các thánh hiền Đông phương nầy, thi hào Sophocle của Hy Lạp đã nói rõ hơn nữa
về thân phận lưu đày của con người, qua thi phẩm « Œdipe-Vua ».
Œdipe là nguyên tượng con người tự mãn chỉ biết ỷ lại vào tài trí của
mình để tự định nghĩa nhân tính. Mang ánh sáng trí năng trong tay, người
« hiểu biết » Œdipe là « Vua », kẻ tự mình làm nên chính
mình và làm chủ quê hương mình. Nhưng Œdipe đó ngu muội không biết ngay cả lý
lịch thật của mình, không biết chính mình đã giết cha ruột và lấy cả mẹ ruột
làm vợ. (Mẹ ở đây tiêu biểu cho nguồn suối yêu thương sinh thành của cha, Mẹ
sinh thành ấy nay bị biến làm vợ, là hình ảnh của dục vọng muốn mình là chúa tể
cho chính mình). Con đường tìm lại ý nghĩa nhân tính linh thiêng và chân thật,
con đường giúp Œdipe nhận ra lý lịch của mình trong mối tương giao phụ-tử
với người cha mà mình không thấy, con đường cứu độ đó chính là con đường
tha hương, lưu đày ra khỏi vùng đất mà kẻ lầm lạc tưởng là quê thât của mình.
Với ánh sáng kỳ diệu của đôi mắt mù lòa, ánh sáng « huệ nhãn » vượt
lên trên ánh sáng của hiểu biết con người, Œdipe rời xa quê cũ, khiêm tốn lần
mò từng bước trong cuộc sống tha hương, nhớ nhà, nhớ quê nơi cư ngư của người
cha ẩn mặt, để hoàn thành trong khổ đau nhân tính kỳ bí và linh thiêng.
Và Socrate, người thầy
của văn hóa Tây phương, lại là kẻ lưu đày ngay trên quê hương Athènes. Vì
truyền bá sứ điệp về ý nghĩa nhân tính thần thánh mà ông đã trực giác được nhờ
nguồn Ánh Sáng đến từ Bờ Bên Kia, Socrate bị xã hội đương thời, nhất là giới tự
xưng là tài trí khôn ngoan, kết tội là kẻ làm hư hỏng con người, bôi nhọ
Thần Thánh mà họ sùng bái. Cuối cùng vì trung kiên với sứ mệnh truyền đạt chiều
kích « linh ư vạn vật » của nhân tính mà người hiền Socrate bị
tòa án của chính quê hương mình tuyên án phải chết.
Abraham trong Kinh
Thánh, Abraham tổ phụ của những ai tin vào mối Giao-Ước thần thánh giữa
Thiên Chúa siêu việt và con người, mối tương giao kỳ bí làm nên yếu tính linh
thiêng của nhân tính, Abraham đó là người dứt bỏ quê nhà cũ để tiếp nhận ân
phúc làm kẻ tha hương và lưu đày, làm kẻ vượt qua cuộc sống tự nhiên để đi vào
mầu nhiệm của con người được nâng lên hàng thần thánh.
Và hiện thân của kẻ
tha hương lưu đày nỗi bật là Con Người Giêsu, Người từng nói : « Chim
có tổ, chồn có hang, riêng Tôi là kẻ không có chổ tựa đầu ». Người đó tha
hương nơi quê mình, bị dân mình ruồng bỏ. Người đó bị treo lên khỏi đất và kêu
lên « Tôi khát, Tôi nhớ Thiên Chúa Cha tôi ». Và trong Cơn Khát, Nỗi
Nhớ đó, Ngài « hoàn thành công trình cứu độ nhân loại », giúp con
người vượt qua thân phận chỉ là « thể phách » hay chết, đi vào nguồn
Sinh Lực của chiều kích « tinh anh », siêu nhiên . Sinh Lực đó
là Sinh Lực yêu thương làm cho người trở thành thần thánh.
Trong khổ đau của hoàn
cảnh tha hương hôm nay, chúng ta nhớ quê nhà, và hơn hết nhớ nguồn sinh
lực làm nên hồn sống của Hồng Bàng Thị, dòng tộc của chúng ta, dòng tộc cao cả,
to lớn (Hồng) và toàn vẹn, chung khắp (Bàng). Trong bản văn huyền
thoại khai sinh dân tộc nầy, người Mẹ Âu Cơ được Thần dấu mặt Lạc Long Quân
đưa ra khỏi vùng đất của một Đế-Lai chỉ biết say mê kim ngân, châu
ngọc…, và cho làm kẻ tha hương ở Long Trang, quê hương thần thánh. Từ mối
tương giao « Thần-Người » ấy phát sinh ra dòng tộc cao cả và chung
khắp, dòng tộc con người « linh ư vạn vật » qua hình ảnh một trăm con
phi thường : không ăn , không uống mà tự nhiên trường đại. Người Mẹ Âu Cơ
và trăm con phi thường ấy múc lấy nguồn sống linh thiêng cao cả nơi nhân tính
mình khi ngày đêm biết quay về nơi Tương Dạ, nơi Tâm Duy Vi « Thần gặp
Người », khi ngày đêm khao khát và thương nhớ Thần dấu mặt Lạc Long Quân
cư ngụ Bên Kia Bờ.
Nỗi nhớ nhà, nhớ quê
của cuộc sống tha hương chúng ta hôm nay mong sẽ cống hiến một cơ duyên giúp
người đồng bào trong cũng như ngoài nước nhớ lại sứ điệp của nỗi nhớ căn nguyên
nơi tâm sâu kín của mỗi người, nhớ lại giá trị thiêng liêng của yêu thương
và tình nghĩa làm nên hồn dân tộc và hơi thở của văn hóa.
________________________
·
Phát biểu trong ngày ra mắt sách « NHỮNG KHUÔN MẶT
VĂN HÓA VIỆT NAM PARIS, 1995-2015 » do Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN PARIS phát
hành Ngày 18-09-2016, Salle Conférence Hermès, Paris XIIIe.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen