Từ Ukraine, Vladimir Putin đang phục hoạt NATO
Hùng Tâm
Tuần
này, nguyên thủ các quốc gia thành viên của Minh Ước Phòng Thủ Bắc Ðại
Tây Dương NATO có thượng đỉnh tại thành phố Newport của Công quốc Wales
trong Vương quốc Liên Hiệp Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan (United Kingdom) - mà
chúng ta thường gọi là nước Anh. Trong hai ngày mùng 4 và mùng 5 Tháng
Chín, lãnh đạo của 28 thành viên NATO thảo luận về tương lai của một
minh ước quân sự hình thành từ 65 năm trước và nay phải xác định lại mục
tiêu trước mối đe dọa của Liên Bang Nga tại Ukraine. tổng hợp lại các
sự kiện đáng chú ý của sự xoay chuyển này.
Nói mà không làm mới là giỏi
Ðã có một giai đoạn dài, tới nửa thế kỷ, Minh Ước NATO bị châm biếm là “no action, talk only” - chỉ nói mà không làm. Thật ra
đấy mới là sự thành công của một liên minh phòng thủ quân sự.
Ra
đời từ năm 1949 để bảo vệ phân nửa miền Tây Âu Châu trước đà bành
trướng của Liên Bang Xô Viết và các chư hầu trong khối quân sự Warsaw,
Minh Ước NATO có mục tiêu phòng vệ chứ không phải là tấn công. Tổ chức
quân sự này hoàn thành mục tiêu đó khi gìn giữ được hòa bình để các nước
Tây Âu có thể phát triển mạnh về kinh tế sau Thế Chiến II (1939-1945).
Nền móng của công cuộc phát triển này là dân chủ về chính trị và tự do
về kinh tế. Sức mạnh bảo vệ
đến từ vai trò trọng yếu của Hoa Kỳ và từ một yếu tố cực kỳ quan trọng
trước đó chưa hề có: cả hai phe đều có võ khí hủy diệt tuyệt đối là
nguyên tử (atomic), sau này là hạch tâm (nuclear).
Trong
tương quan lực lượng mà thời ấy người ta gọi là Ðông-Tây, với phía Ðông
của Âu Châu là khối Cộng Sản Xô Viết và phía Tây là các nước Âu Châu tự
do, khối tự do đã thắng vì những nhược điểm nội tại của chủ nghĩa cộng
sản khiến Liên Xô kiệt sức, suy sụp và tan rã.
Sau
khi Liên Xô tiêu vong vào năm 1991, khủng hoảng bùng nổ trong khối Xô
Viết cũ, kết tụ vào vùng đất có nhiếu mâu thuẫn nhất là Liên Bang Nam Tư
(Yugoslavia). Sự tan rã của Nam Tư trong khu vực Balkan dẫn tới xung
đột về sắc tộc và tôn giáo giữa các thành viên cũ với quốc gia mạnh nhất
là Serbia vẫn cố gắng bảo vệ lợi thế và sự thống nhất của mình.
Kế
thừa sự nghiệp của
Liên Xô, cường quốc giàu mạnh nhất là Liên Bang Nga khi ấy bị 10 năm
khủng hoảng trầm trọng, từ 1991 đến 2001, và không thể làm gì trước đà
tan rã của hệ thống cũ.
Ðấy
là lúc Minh Ước NATO lần đầu tiên ra quân, vào năm 1999, để bảo vệ
người dân Kosovo bị quân đội Serbia tấn công và tàn sát. Kosovo là một
khu tự trị của Cộng Hòa Serbia, bên trong, đa số người dân theo Hồi Giáo
và thuộc sắc tộc Albania. Còn Serbia khi đó nằm dưới chế độ độc tài của
Slobodan Milosevic, một đồng minh của Nga, và đa số người dân thuộc sắc
tộc
Nga La Tư (Slav) theo Chính Thống Giáo.
Do
quyết định của chính quyền Bill Clinton trước sự hậm hực mà bất lực của
Nga, Minh Ước NATO không kích các đơn vị tác chiến Serbia để cứu dân
Kosovo. Sau đó, Liên Hiệp Âu Châu còn vận động tiếp để Kosovo ly khai
khỏi Serbia thành một nước độc lập. Cuối cùng thì chính người dân Serbia
cũng nổi lên lật đổ chế độ độc tài sắt máu của Milosevic và đưa Cộng
Hòa Serbia vào khối dân chủ thân Tây phương (Âu và Mỹ), với hy vọng gia
nhập Liên Hiệp Âu Châu.
Lãnh
đạo nước Nga sau trận khủng hoảng, Tổng Thống Vladimir Putin khó quên
nổi kinh nghiệm đó. Với Putin, Minh Ước NATO hết là tấm khiên phòng thủ
của thời Chiến Tranh Lạnh vì sau khi Chiến Tranh Lạnh kết thúc, NATO
biến thành lá chắn cứ lăn về hướng Ðông để bành trướng ảnh hưởng của các
nước dân chủ vào khu vực Ðông Âu và Trung Âu xưa kia thuộc quỹ đạo Nga.
Lối
suy nghĩ và phản ứng đó của Putin từ 15 năm trước mới giải thích chuyện
Ukraine ngày nay, biến cố đang khiến lãnh đạo NATO phải rà soát lại mục
tiêu của minh ước.
Trước
khi nói đến những chuyển biến sắp tới của NATO, “Hồ Sơ Người Việt” cần
nhìn lại minh ước này trong giai đoạn giao thời, khi Liên Xô tan rã và
Putin chưa quật khởi.
NATO như chong chóng hết gió
Minh ước NATO tồn tại chủ yếu là nhờ sự góp quân và góp tiền của Hoa Kỳ.
Trong
thời Chiến Tranh Lạnh từ 1949 đến 1991, Hoa Kỳ là quốc gia mở rộng khả
năng quân sự trên cả khu vực Tây Âu với các đơn vị tác chiến, cả trăm
căn cứ quân sự và một lượng quân cụ lớn lao hơn sức cung ứng của các
nước
Tây
Âu. Hệ thống quân sự ấy trải rộng quanh “Bức màn sắt” của Liên Xô. Chiến
lược của Hoa Kỳ là có được mạng lưới võ trang bao vây Liên Xô để làm
chức năng gián chỉ và báo động. Gián chỉ là can gián và cấm chỉ những
toan tính phiêu lưu của Liên Xô, và báo động là khi Liên Xô có thể vượt
tường mà tung quân vào Tây Âu.
Nhưng
khi Liên Xô suy sụp vào năm 1989 rồi tan rã năm 1991, Minh ước NATO
thực tế lại quay trong chân không như cái chong chóng. Sau đó, minh ước
là cái chong chóng hết gió.
Trước
tiên, các thành viên NATO không còn thấy nhu cầu gia tăng quân phí cho
việc phòng thủ nữa. Ngoài trường hợp Luxembourg tí xíu và Tây Ban Nha,
từ năm 1990, không xứ nào chấp hành điều kiện của NATO là dành 2% Tổng
sản lượng cho quốc phòng. Tới năm 2012
thì chỉ có bốn nước còn đáp ứng đòi hỏi đó, và Hoa Kỳ đành chi tiền để
trám vào khoảng trống. Chẳng những cắt giảm quân phí, các nước còn giảm
bớt cấp số quân đội.
Ngoài
khối Tây Âu, các nước Ðông Âu vừa thoát khỏi ách Xô viết cũng đi theo
trào lưu này. Lý do chính thức là “binh quý hồ tinh,” coi sự tinh nhuệ
và hỏa lực là chính, chứ bất quý hồ đa. Chuyển biến thứ ba là NATO còn
huy động sự tham gia của các nước xưa kia nằm trong hệ thống Xô Viết và
nâng cấp số thành viên lên gấp đôi.
Kết
quả là Minh Ước NATO có ít phương tiện hơn xưa, mà đảm nhiệm thêm chức
năng mới để có nhiều đơn vị hay căn cứ nằm bên “Bức màn sắt mới.” Ðấy là
lúc NATO với ít tiền ít quân hơn, mà lại mở ra nhiều hoạt động nằm
ngoài mục tiêu nguyên thủy là ngăn chặn Liên Xô.
Vì hiến chương của NATO quy định là mọi quyết định của Minh ước đều phải
có sự đồng ý của tất cả các thành viên, người ta thấy ra một nghịch lý là NATO bị tê liệt trong khi nhận thêm nhiệm vụ mới.
Sau
vụ không tập Kosovo năm 1999, đến năm 2001 NATO đã căn cứ vào điều 5
của hiến chương (tấn công một thành viên là tấn công cả tập thể nên tập
thể có nhiệm vụ bảo vệ) mà can thiệp vào chiến trường Afghanistan - nằm
ngoài Âu Châu - vì Hoa Kỳ bị khủng bố tấn công. Song song, NATO cũng có
mặt trong vùng Balkan, ngoài biển Ðịa Trung Hải, tại vịnh Aden và cả
Somalia hay Sudan và Nam Sudan ở Phi Châu,
v.v...
Trong
khi đó, Liên Bang Nga dần dần ra khỏi khủng hoảng và chuẩn bị tổng phản
công, bước đầu tiên là đưa quân vào Georgia năm 2008.
Từ năm 2001 trở đi cho tới gần đây, NATO mới là cái chong chóng xoay theo ba hướng.
Các
nước phía Bắc Âu Châu, từ Vương quốc Anh trở lên, thì còn giữ gìn mục
tiêu bảo vệ Bắc Ðại Tây Dương nên có lập trường gần với Hoa Kỳ. Các nước
Tây Âu quanh Ðịa Trung Hải thì quan tâm đến mối nguy xuất phát từ miền
Nam, từ Trung Ðông, nên muốn NATO là lực lượng quân sự canh chừng Nam Âu
cho mình. Trong khi đó, các thành viên mới của NATO tại khu vực Ðông Âu
và Trung Âu thì không quên được mối đe dọa từ miền Ðông, từ Liên Bang
Nga sau vụ Georgia.
Vì
vậy, NATO không thể có một chiến lược thống nhất và tập trung vào một
mục tiêu ưu tiên. Ngày nay, nhờ Putin với bàn tay thọc sâu vào miền Ðông
của Ukraine, NATO đang điều chỉnh lại tọa độ.
NATO dàn trận
Từ
đầu năm nay, khi vụ khủng hoảng Ukraine bùng nổ vì sự can thiệp của
Putin - xâm lấn hay xâm lược là tùy cách gọi - NATO đã tái phối trí lại
phương tiện và nghiền ngẫm lại mục tiêu.
Về
phương tiện, minh ước ra sức yểm trợ quân sự cho chính quyền Ukraine
tại Kyiv (tên thủ đô theo cách gọi của dân Ukraine thay cho chữ Kiev
thông dụng, vốn là tiếng Nga) bằng nhiều biện pháp, kể cả thông tin tình
báo hay quỹ tài trợ các lực
lượng võ trang của Ukraine. Nhiều thành viên khác của NATO thì kêu gọi
cung cấp thêm võ khí cho quân đội chính quy của Kyiv. Riêng có ba nước
thì đã thi hành điều này, là Hoa Kỳ, Hung và Croatia.
Hôm
29 vừa qua, Thủ Tướng Arseny Yatsenyuk của Ukraine còn yêu cầu Quốc Hội
thông qua một quyết định là xin gia nhập Minh Ước NATO. Diễn giải cho
dễ hiểu: Ukraine chưa là thành viên NATO, mà đã được minh ước này bảo
vệ. Vấn đề ấy khiến NATO phải suy ngẫm lại mục tiêu và hợp thức hóa các
quyết định chiến lược trước đà bành trướng của
Putin.
Trong
thực tế và chìm sâu dưới những bản tin của thời sự, Minh Ước NATO đã
tái phối trí lại phương tiện quân sự và cần những văn kiện pháp lý cho
phép sự chuyển hướng đó.
Thí
dụ như NATO đang chuẩn bị ký kết một hiệp ước dài hạn cho phép đưa quân
vào Thụy Ðiển và Phần Lan nếu được yêu cầu. Mục đích là
để khai triển khả năng cấp cứu hay bảo vệ khi hai xứ này, hoặc nhiều xứ
khác, có lời kêu gọi. Cũng vì tính toán đó của NATO mà Putin đã cho
chiến đấu cơ ba lần xâm phạm không phận của xứ Phần Lan trong Tháng Tám
vừa qua.
Một
thí dụ khác là NATO lặng lẽ củng cố hệ thống phòng thủ chung quanh bức
Màn sắt mới của Putin, tại các nước Ðông Âu xưa kia là thành viên của tổ
chức Warsaw. Vì vậy, Hoa Kỳ gia tăng công tác huấn luyện cho quân lực
Romania, Bulgaria và quanh khu vực Hắc Hải trong khi bố trí lại các đơn
vị tác chiến (Lữ Ðoàn Không
Kỵ 173 và Sư Ðoàn I Thiết Giáp) vào Ba Lan và ba nước trong vùng biển
Baltic là Lithuania, Latvia và Estonia. Bên cạnh đó, Anh, Pháp, Ðức và
Canada cũng đã nâng cao khả năng không chiến trong khu vực.
Ngoài
ra, NATO đang trù tính lập ra các căn cứ thường trực tại Ba Lan và vùng
Baltic để khi hữu sự thì có sẵn những đầu cầu đổ quân, và trước hết là
để các nước bị đe dọa thấy rõ ý chí bảo vệ của minh ước.
Ngày nay, lãnh đạo của minh ước đang ở vào giai đoạn “ngôn hành hợp nhất,” là hành động đi đôi với lời nói.
Kết luận ở đây là gì?
Các
nước dân chủ Tây phương đang gặp hai mối nguy đồng quy - cùng nhắm vào
một tâm điểm - là sự bành trướng của chế độ Putin độc tài và sự đe dọa
của các lực lượng Hồi Giáo cuồng tín tại Trung Ðông.
Minh
Ước NATO kết tụ nỗ lực phòng thủ của Tây phương trước hành động phiêu
lưu của Putin. Nhưng nhiều thành viên NATO cũng nằm tại vùng bản lề của
cả hai mối nguy nói trên, điển hình là vùng Hắc Hải bên cạnh Ukraine và
Romania, hay là
xứ Turkey, thành viên NATO, tiếp giáp với Iraq và Syria.
Sau
Tổng Thống Barack Obama, lãnh đạo Hoa Kỳ phải nhìn ra mối quan hệ này
và đề xướng với các nước một mục tiêu chiến lược và thiết thực hơn cho
Minh Ước NATO. Thế mới là lãnh đạo.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen