Việt Nguyễn
Nhịp sinh học là chu kỳ thay đổi tự nhiên trong cơ thể từ chức năng
hoạt động đến sinh hóa. Đồng hồ nằm trên não bộ giúp tinh thần và
thể xác đáp ứng với bóng tối và ánh sáng. Các chức năng của cơ thể
ăn, ngủ, thân nhiệt, kích thích tố, hoạt động, tỉnh thức, áp huyết
v.v… gồm nhịp hàng ngày trong 24 giờ (circadian rythm), nhịp ngày
và đêm, nhịp ngắn và nhịp dài hơn 24 giờ.
Giải Nobel Y Học năm 2017 về tay ba nhà khoa học Hoa Kỳ với công
trình tiên phong nghiên cứu đồng hồ sinh học (biological clock) của
cơ thể. Các công trình nghiên cứu này như ông Thomas Perlmann, thư
ký ủy ban chấm giải, cho biết từ: “Biological clock” đã giúp giải
thích các sinh vật, động vật, thực vật thích ứng hòa hợp như thế
nào về phương diện sinh học để hòa đồng với những thay đổi của trái
đất.
Kết quả của giải y học năm nay là một ngạc nhiên lớn, chính ông
Robash, một trong ba người đoạt giải, đã thốt lên khi ông Perlmann
báo tin: “Chắc ông nói đùa!” Ngạc nhiên vì tên của ba nhà khoa học
Jeffery Hall, Michael Robash, và Michael Young không đứng hàng đầu
trong danh sách được đề nghị giải Nobel. Vào thời điểm này các
nghiên cứu y sinh học chú trọng vào các phương pháp chữa bệnh mới,
tiền đổ vào phương pháp trị liệu miễn nhiễm (Immunno Therapy) trong
chiến tranh chống ung thư hay CRISPR (phương pháp thay đổi gene [di
thể], cách mạng trong việc chữa trị bệnh di truyền từ trong thời kỳ
thai nhi, nhắm vào trung tâm tế bào ung thư, loại siêu vi trùng HIV
ra khỏi cơ thể, loại các vi trùng tối độc ra khỏi cơ thể bằng cách
ép chúng giết lẫn nhau). Các ông Hall và Robash (Đại Học Brandeis)
và ông Young (Đại Học Rockefeller) đã tự nghiên cứu không nhận được
tiền từ các công ty lớn hay quỹ của chính quyền. Các cuộc nghiên
cứu của các ông từ năm 1984 về di thể điều hòa nhịp sinh học trong
ruồi giấm (Fruit flies Drosophila có 60% di thể giống như di thể
loài người) còn bị xem là theo đuổi mục đích vô ích vì không theo
đuổi hai mục đích lớn của y học hiện nay: chữa ung thư và ngừa bệnh
Alzheimer. Giải Nobel Y Học năm nay đi ngược chiều hướng y khoa
hiện đại có lẽ như là một lời cảnh báo cho các trường đại học y
khoa vì hiện nay các ngành khoa học căn bản đang ở vào thời kỳ khó
khăn không được chú trọng, các ngành này chỉ được xem là bước đầu
của sinh viên vào học y khoa.
Nhịp sinh học thay đổi tùy người, tùy thời gian, trong giấc ngủ, có
người tỉnh táo ngay sau khi thức dậy, có người tỉnh dậy đúng giờ
mỗi ngày tùy đồng hồ báo thức trong cơ thể. Năm 1917, nhà tâm lý
học nổi tiếng Edwin G Boring và vợ đã làm cuộc thí nghiệm đánh thức
những người ngủ say để xem khi tỉnh dậy họ có biết là lúc mấy giờ?
Đa số người ngủ say phải mất đến 50 phút mới biết họ đang ở đâu,
mấy giờ rồi? Tỉnh thức tùy vào giấc ngủ say hay mơ mơ màng màng,
tùy thuộc vào bữa ăn tối nhiều hay ít, ăn có tiêu hay chậm tiêu
(ngủ ít cảm thấy miệng đắng) tùy vào bọng đái đầy hay vơi, tùy vào
tiếng gà gáy trong xóm hay tiếng xe hơi chạy ngoài đường… Ít người
được như nhà tâm lý William James trong cuốn “Nguyên tắc tâm lý
học” thức dậy đúng giờ đúng phút đêm này qua đêm khác, ngày này qua
ngày khác. Chiếc đồng hồ sinh học nằm trong DNA của ông hoạt động
điều hòa hơn người khác.
Trong 2,000 năm, các tư tưởng lớn của nhân loại vẫn tranh luận về
bản chất của thời gian: Thời gian có hạn hay vô hạn, thời gian chảy
xuôi như giòng sông hay như những hạt cát rơi xuống như trong đồng
hồ cát (Hourglass) đồng hồ tính giờ ngày xưa. Thời gian tương đối,
400 năm trước Tây lịch, Plato đã suy nghĩ nhức đầu về chuyển động
và ngừng “điều gì chuyển động thì chính là ngừng nghỉ, điều gì
chúng ta tưởng là nghỉ thì lại chuyển động.” Không biết đến đồng hồ
sinh học nhưng St. Augustine (thế kỷ 16) nói Thượng Đế đã tạo ra
muôn loài nhưng chính chúng ta đã tạo ra thời gian. Hiện tại, tương
lai, quá khứ do con người đặt ra. Thời gian của St. Augustine là
thời gian tâm lý chứ không phải là thời gian vật lý. Thời gian
tương đối qua thuyết Einstein và cho đến thế kỷ 19 con người vẫn
bàn cãi “thời gian có thật không?”
Thời gian nằm trong di thể, trong tế bào và con người được cấu tạo
từ tế bào. Con người, như nhà tâm lý Piaget nói, chỉ biết thời gian
từ từ theo phát triển của tế bào. Đồng hồ sinh học giúp con người
phân biệt thời gian, mấy tháng đầu trẻ em chỉ biết phân biệt lúc
này hay không phải lúc này, đến 4 tuổi mới phân biệt được trước và
sau. Từ 3 đến 4 tuổi trẻ không có trí nhớ rõ ràng.
Tháng Mười Một 1868, nhà thiên nhiên học người Anh Thomas Henry
Huxley, người sáng lập nguyên tắc khoa học hiện đại, xem mô hình
của thiên nhiên là cơ chế để giải thích cho những bộ máy nhân tạo
được xem như là đồng hồ. Ông chưa nghĩ đến đồng hồ sinh học nhưng
hiển nhiên ông đã xem con người như một đồng hồ do tạo hóa sáng
chế. Giáo sư sử về khoa học và triết trường Stanford, bà Jessica
Riskin ví con người như một đồng hồ không ngừng chạy (restless
clock) nguyên tắc bắt đầu từ giữa thế kỷ thứ 17, nguồn gốc của tân
khoa học (new science) một thế kỷ trước ông Huxley. Khoa cơ học tả
thế giới như là một bộ máy của chiếc đồng hồ vĩ đại, các bộ phận
được tạo ra bằng vật chất chuyển động nhờ những lực từ bên ngoài.
Quan niệm này giải thích căn bản khoa học thiên nhiên có nguồn gốc
thần học, với ông thần từ bên ngoài, một Thượng Đế siêu việt.
Nhà toán học người Đức Gottfried Leibniz (1646-1716) đồng thời là
triết gia nổi tiếng là người đầu tiên ví đồng hồ với cơ thể con
người: “Đồng hồ liên tục chuyển động giống như cơ thể con người.”
Đồng hồ và các bộ máy do con người tạo ra thụ động còn con người và
sinh vật theo Leibniz là những bộ máy tích cực không hoàn toàn thụ
động bởi những lực từ bên ngoài Leibniz bác bỏ thuyết của
Descartez, triết gia Pháp một thế kỷ trước xem con người và các
sinh vật là bộ máy thiếu linh hồn, Leibniz cũng đả phá các triết
gia phái Cartesian, các nhà vật lý đi theo con đường của Descartes,
xem hai phần linh hồn và thể xác rời nhau. Đối với Leibniz, bộ máy
con người nằm trong bộ máy tạo hóa, con người hòa đồng với vũ trụ.
Sức sống (Vis Viva), danh từ của Leibniz, là lực có thật còn chuyển
động không thật. Leibniz khi qua Trung Hoa đọc triết Trung Hoa đã
ca ngợi Khổng Tử, Vis Via của Leibniz như Lý càn khôn, Lý uyên
nguyên của vũ trụ, cái lẽ trời đất trong triết học Đông Phương.
Năm 1944 với Schrodinger nhà vật lý người Áo, nổi tiếng với vật lý
lượng tử (Quantum Physics) xem con người là bộ máy, cơ chế sống
động như đồng hồ. Chiếc đồng hồ của Schrodinger giống như căn bản
triết của Leibniz, trật tự, cân bằng và hòa đồng. Đồng hồ này khác
với con người là bộ máy, là đồng hồ của Aristotle (thế kỷ 4 trước
Tây lịch) chuyển động với bắp thịt như lò xo. Đồng hồ của
Schrodinger chuyển động nhờ di thể (gene) với hai loại phân tử ông
gọi là thủy tinh, một hoạt động cá thể không theo chu kỳ (aperiod
Crystal) khác với loại hoạt động theo chu kỳ lập đi lập lại (period
Crystal).
Năm 1953, James Watson và Francis Crick tìm thấy cấu trúc DNA, di
thể là thủy tinh không chu kỳ của Schrodinger.
Từ thế kỷ 16 các nhà hóa kim (alchemist) cũng như Steven Pincker
hay nhắc đến Homunculus một con người nhỏ trong đầu chỉ huy con
người, nay ba nhà khoa học Hall, Robash và Young đã chứng minh được
gene nằm trong não bộ chỉ huy bộ máy sinh học của con người.
Năm 1990, ông Hall và Robash (Đại Học Brandeis) cùng viết luận án
với sinh viên của các ông là Paul Hardin tìm ra gene kiểm soát nhịp
hàng ngày ở con ruồi giấm, nhịp sinh học thay đổi trong thời kỳ 24
giờ. Di thể được đặt tên là PER (3 chữ đầu của chữ Period), nồng độ
chất đạm PER tăng vào buổi tối, giảm vào ban ngày. Số lượng PER
được kiểm soát bằng cơ chế phản hồi bốn năm sau, ông Young đại học
Rockefeller khám phá ra gene không thời gian TIMELESS, di thể này
liên kết hoat động với PER từ bào tương (Cytoplasm) cho đến nhân tế
bào. Cơ chế hỗ tương cần phân hóa tố Doubletime tăng sự thoái hóa
của PER, ngăn chận sự tích tụ của PER giúp đồng hồ sinh học chạy
đúng giờ. Các gene khác như CLOCK và CYCLE cũng đóng phần điều
chỉnh sản xuất PER và TIMELESS. Các loại chất đạm này tìm thấy
trong ruồi giấm, người và các sinh vật khác.
Những khám phá về y sinh học của các ông Young, Hall và Rosbach sẽ
đóng góp nhiều về sự chữa trị của các bệnh như bệnh tiểu đường
không hoàn toàn dựa trên thực phẩm, đồ ăn, ăn kiêng cữ mà ăn lúc
nào tùy chu trình sinh học của mỗi người. Chu kỳ sinh học ngày giờ
cũng ảnh hưởng lên tác dụng điều trị cũng như tác dụng phụ của
thuốc. Chu kỳ sinh học ảnh hưởng lên cá tính cũng như bệnh tật của
những người phải làm ca đêm như y tá, bác sĩ phòng cấp cứu, đang
làm ca đêm đổi sang ca ngày, lính cứu hỏa, nhân viên an ninh làm
đêm v.v…
Chu kỳ sinh học điều khiển bởi gene trong não bộ do ông Trời sinh
ra cho nên cá tính của ông tổng thống không ngủ, “tweet” vào 3 giờ
sáng mỗi ngày, có lẽ chỉ có Trời thay đổi được?
Việt Nguyên
__._,_.___
Posted by: "Patrick Willay" <pwillay@orange.fr>
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen