Cho tôi thắp một nén
nhang
Khóc người đồng chí
Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh là ngụy
Tha thứ cho tôi một thế hệ bị lừa !
Lê Phú Khải
Khóc người đồng chí
Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh là ngụy
Tha thứ cho tôi một thế hệ bị lừa !
Lê Phú Khải
Bạn tôi,
tất cả, đều là lính ráo. Chúng tôi không chỉ có chung những năm cầm
súng, và một quãng đời tù mà còn chia chung rất nhiều ... cố “tật!”
Hễ gặp nhau là uống, và câu chuyện trên bàn rượu trước sau gì rồi
cũng xoay quanh kỷ niệm về đám chiến hữu hồi còn chinh chiến: những
thằng đã chết, những đứa đang vất vưởng ở quê nhà, hay lưu lạc (đâu
đó) nơi đất lạ xứ người.
Thỉnh
thoảng, khi (quá) vui, chúng tôi cũng hay mang những vị thượng cấp cũ
ra làm đề tài giễu cợt. Hai ông huynh trưởng thường bị nhắc tới để
cười chơi là Trần Hoài Thư, và Phan Nhật Nam. Lý do: cả hai vị vẫn
nhất định chưa chịu giải ngũ, dù cuộc chiến đã tàn tự lâu
rồi!
Trung Úy
Trần Hoài Thư vẫn thản nhiên đưa quân Qua Sông Mùa Mận Chín.
Đại Úy Phan Nhật Nam vẫn cứ la hét um xùm qua máy truyền tin (giữa
Mùa Hè Đỏ Lửa) như thể là cái mùa Hè năm 1972 đó vẫn còn kéo dài
đến bây giờ, dù hơn 40 năm đã lặng lẽ trôi, với cả đống nước sông –
cùng nước suối, nước mưa, nước mắt... – đã ào ạt chẩy qua cầu và qua
cống.
Sau khi
cạn mấy đầy, rồi đầy mấy ly cạn (và sau màn trình diễn “một ngàn
bài Bolero”) tôi hay xin "trân trọng tuyên bố cùng toàn thể các chiến
hữu các cấp" rằng :
Ai viết
cái gì tôi cũng đọc tuốt luốt, trừ hai vị thẩm quyền (nhí) này thì
khỏi!
Sao vậy
cà?
Bởi vì thơ với văn của hai
ổng có nhiều câu mà “lỡ” đọc một là nó bị kẹt luôn trong đầu, gỡ
không ra, nên tui không dám đọc thêm nữa:
Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẩng
Trong túi ta một gói thuốc
chuồn
Bắt
tù binh mời điếu thuốc thơm
Ðể
thấy miền Nam lính hiền ghê gớm
...
Ta lính miền Nam hề, vận nước
ngửa nghiêng
Ta cũng lênh đênh cùng cơn
mạt kiếp
Ta
trèo lên cây hỏi rừng cho biết
một
nơi nào hơn ở Việt Nam ?
Có
người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam ?
Trần Hoài
Thư (“Ta Lính Miền Nam”)
Nguồn ảnh:internet
Không chỉ
bi tráng, bi hùng, hay bi phẫn mà (đôi khi) người lính miền Nam
còn phải đối diện với lắm nỗi bi thương:
“Tôi đi vào
ngôi nhà đang âm ỉ cháy, những chiếc cột lớn lỏng chỏng hỗn độn bốc khói xám...
Một người đàn bà áo trắng quần đen tay ôm chiếc lẵng mây trước ngực ngồi im trên
nền gạch đôi mắt nhìn thẳng ngơ ngác. Thấy chúng tôi đi vào chị ta đứng dậy,
đứng thẳng người như pho tượng, như thân cây chết với đôi mắt không cảm giác.
Thằng bé theo tôi cùng cùng tên hiệu thính viên lẻn ngay vào bếp kiếm thức ăn.
Tôi đi đến trước chị đàn bà...
- Làm gì chị ngồi
đây, không biết đang đánh nhau sao?
Im lặng,
đôi mắt ngơ ngác lóe lên tia nhìn sợ hãi. Bỗng nhiên chị ta đưa thẳng chiếc lẵng
mây vào mặt tôi, động tác nhanh và gọn như một người tập thể dục. Sau thoáng
ngạc nhiên tôi đưa tay đón lấy... Hai bộ áo quần, chiếc khăn trùm đầu, gói giấy
nhỏ buộc chặt bằng dây cao su. Mở gói, hai sợi giây chuyền vàng, một đôi bông
tai.
- Của chị đây hả?
- Vẫn im lặng. Nỗi im lặng ngột ngạt, lạ lùng.
- Con mẹ này điên
rồi thiếu uý, chắc sợ quá hóa điên...
Tên lính
xua tay đuổi người đàn bà đi chỗ khác. Lạnh lùng, chị ta xoay người bước đi như
xác chết nhập tràng.
- Chị kia quay lại
đây tôi trả cái này... Tôi nói vọng theo.
Người đàn
bà xoay lại, cũng với những bước chân im lặng, trở về đứng trước mặt tôi nhưng
đôi mắt bây giờ vỡ bùng sợ hãi, vẻ hốt hỏang thảm hại làm răn rúm khuôn mặt và
run đôi môi... Chị ta còn trẻ lắm, khỏang trên dưới hai bảy, hai tám tuổi, da
trắng mát tự nhiên, một ít tóc xõa xuống trán làm nét mặt thêm thanh
tú.
Tôi đưa trả
chiếc lẵng mây, chị đàn bà đưa tay đón lấy, cánh tay run rẩy như tiếng khóc bị
dồn xuống. Chiếc lẳng rơi xuống đất, hai cánh tay buông xuôi mệt nhọc song song
thân người. Dòng nước mắt chảy dài trên má. Tôi hươi mũi súng trước mặt chị
ta:
- Ngồi đây! Tôi
chỉ nòng súng vào bực tam cấp. Khi nào tụi tôi đi thì chị đi theo... Tại sao
khóc, nhặt vàng lên đi chứ... Im lặng, chỉ có nỗi im lặng kỳ quái, thân
thể người đàn bà cứ run lên bần bật, nước mắt ràn rụa... Từ từ chị đưa bàn tay
lên hàng nút áo trước ngực...
Không!
Không thể như thế được, tôi muốn nắm bàn tay kia để ngăn những ngón tay run rẩy
đang mở dần những hàng nút bóp để phơi dưới nắng một phần ngực trắng hồng! Không
phải như thế chị ơi... Người đàn bà đã hiểu lầm tôi...
Chị ta
không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất.
Chị ta tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết bao
nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu
lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này.
Tôi
đi lính chỉ với một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng
cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này... (Phan
Nhật Nam. Dấu Binh
Lửa. Sài Gòn: Hiện Đại,
1969).
Ở thời
điểm này, có lẽ, Phan Nhật Nam không hề biết rằng “sự ngộ nhận đớn
đau tủi hổ” của dân chúng với những người lính miền Nam chả phải là
“ngẫu nhiên” đâu. Nó đã được đối phương chuẩn bị rất kỹ, và tuyên
truyền rất công phu – theo như nhận xét (gần đây) của giáo sư Nguyễn Văn
Tuấn:
“Ngày xưa ở
miền Bắc VN, tôi đoán người ta tuyên truyền nói xấu về chế độ miền Nam VN dữ
lắm. Bộ máy tuyên truyền ngoài đó đã thành công gieo được vào đầu óc của người
dân thường rằng chế độ Mĩ Nguỵ rất ác ôn; lính Nguỵ chỉ đánh thuê, rất ác ôn đến
nỗi họ ăn gan uống máu người...”
Và đây
cũng chả phải chỉ là chuyện “ngày xưa ở miền Bắc” đâu. Sau khi thắng
cuộc “bộ máy tuyên truyền” vẫn tiếp tục bôi bẩn và xỉ nhục những
người lính miền Nam, như thể họ vẫn còn là những kẻ thù ác độc
và nguy hiểm.
Rảnh, thử
xem qua vài đoạn trong một truyện ngắn (“Chuyện Vui Điện
Ảnh”) của nhà văn Nguyễn Ngọc
Tư. Bà viết viết về “tai nạn nghề nghiệp” xẩy đến cho một tài tử
nghiệp dư, chỉ vì lỡ thủ vai một thằng lính miền
Nam:
Chú Sa diễn vai thiếu úy Cón (nghe cái tên thôi
cũng thấy ghét rồi), một tên ác ôn
giết vợ, hãm hại vợ người, tàn sát
trẻ nít, huênh hoang phá xóm phá làng, sau chết
vì bị chó điên
cắn...
Khi chú mặc bộ đồ rằn ri vô mình
rồi, ông đạo diễn không chê vào đâu
được. Long Xưởng hô máy một cái là nét
mặt chú Sa lạnh như người chết, con mắt trắng
dã, lừ đừ, nụ cười bí hiểm. Lúc
quay cận cảnh khuôn mặt chú còn ghê
nữa, da sần sùi, u uẩn như da cóc, tay chân
đầy lông lá, cái răng cửa gãy chìa ra
một nụ cười chết chóc với lỗ trống sâu hun
hút.
Hồi đầu mọi người còn khen chú mặc bộ đồ mắc toi
đó coi oai thiệt, nhưng rồi sau đó nín bằn
bặt, người ta quên chú Sa ở hẻm Cựa Gà đi,
chỉ còn lại thằng Cón ác ôn. Thằng
Cón cưỡng hiếp vợ một cán bộ Đảng
mình đang mang thai.
Tới chừng biết đứa bé kia không phải con
mình, hắn xé đứa nhỏ làm hai ngay
trên giường đẻ, trước mặt người mẹ, cầm bằng đã giết
chị ta. Phim bạo liệt, trần trụi. Thằng Cón chết, nó
cũng không chết bình thường như người ta, nó
chết trong dằn vặt.
Cái mặt lạnh tanh gớm ghiếc của nó co
giật méo xệch, bọt mép sùi sụt.
Nó cắn vô mấy thằng lính
đứng quanh nó. Điên dại tới lúc bị
bắn chết. Mọi người theo dõi thằng Cón chết,
vừa hể hả vừa ghê tởm...
Chú Sa vẫn tiếp tục đi về trên con hẻm hẹp
te mà nghe trống vắng thênh thang. Tụi con
nít nghe tiếng xe đạp chú tè tè lọc cọc
thì chắc mẩm đứa nào đứa nấy mặt xanh mặt
tím chạy vô nhà trốn. Tụi nó
hỏi nhau: "ổng đi chưa?", cũng tại má tụi nó
nhát hoài, lì lợm, không ăn cơm là bị chú Sa
ăn thịt. Rõ ràng là ấn tượng về thằng thiếu
úy Cón mạnh mẽ quá sức tưởng tượng,
rõ ràng là người ta bị giật mình bởi
tộiác.
Bà con ngại ngần ác cảm giạt xa
chú ... Chú Sa thấy đây đúng là
một tai nạn ...
Cái “tai
nạn” riêng của Chú sa chỉ xẩy ra trong phạm vi của một con hẻm nhỏ và
sẽ không kéo dài lâu. Còn hàng triệu thằng lính miền Nam thật
– cùng vợ con, thân nhân của chúng – không chỉ phải chịu đựng sự
“ngại ngần ác cảm” của đám đông mà còn bị Nhà Nước Cách Mạng kỳ thị
(và miệt thị) không biết đến bao giờ!
Mãi cho
đến ngày 2 tháng 5 năm 2014, người ta mới nghe một viên chức ngoại giao
của phe thắng cuộc, Thứ Trưởng Nguyễn Thanh
Sơn, nói đôi lời tử
tế:
Ngày
xưa ta không thể nói là không có chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam. Đó là
chính phủ cũng được quốc tế thừa nhận chứ. Đó cũng là một nhà nước có quân đội
thực thi nhiệm vụ quốc gia của họ để bảo vệ chính nghĩa theo lý tưởng của
họ.
Và đó cũng chỉ là sự tử tế ngoài
miệng! Ngày 12 tháng
4 vừa qua, công an quận Hoàn Kiếm đã bắt giữ và buộc tội
(“gây rối trật tự công cộng”) một số thanh niên đã mặc quân phục hay áo
thun màu đen có biểu tượng Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, trong cuộc tuần hành
vì cây xanh ở Hà Nội.
Các bạn trẻ mặc áo thun đen có biểu tượng QLVNCH. Ảnh:
Nguyễn Lân
Thắng
Hai tuần
sau, sáng
27/4/2015, công an quận Hoàn Kiếm
đã kết hợp với công an Nghệ An khám xét nhà của anh Nguyễn Viết Dũng (tức Dũng
Phi Hổ) tịch thu quân phục lính VNCH của anh Dũng.
Việc gì
mà phải hốt hoảng đến nỗi “khám nhà,” “tịch thu” và “vu vạ” tội
trạng cho vài thanh niên chỉ vì y phục mà họ mặc trên người như thế?
Chả lẽ cái chế độ hiện hành có thể bị rung chuyển chỉ bởi vài cái
áo (“thun màu đen, có biểu tượng Quân lực Việt Nam Cộng Hoà”)
sao?
Hơn nửa
thế kỷ tuyên truyền lừa gạt, bôi bẩn, miệt thị những kẻ thua cuộc
(bộ) chưa đủ nguôi ngoai thù hận hay sao? Nắm trọn quyền bính của
cả một nhà nước trong tay mà sao có thể hành sử một cách đê tiện,
và tiểu tâm đế́n thế?
Dù thế,
thời gian đã không đứng về phe thắng cuộc, và đã dần hé mở dần chân
dung của những người lính miền Nam:
Cho tôi thắp một nén
nhang
Khóc người đồng
chí
Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh
là ngụy
Tha thứ cho tôi một
thế hệ bị
lừa !
Năm
tháng đi qua
Gần hết cuộc
đời tôi mới ngộ
ra
Không giọt máu Việt Nam nào là
ngụy
Trừ những thằng
bán nước - đi
đêm
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen