Vào thời điểm ngay sau ngày
30/4/1975, tâm trạng người dân hoang mang cực độ. Nhà nhà e dè mỗi khi tiếp xúc
hay trao đổi với những người hàng xóm thân thuộc trước kia. Không khí xóm giềng
thân mật không còn ứng hợp với câu “bà
con xa không bằng láng giềng gần” nữa, đối lại bằng những cặp mắt nghi ngờ, e sợ,
nhất là khi thấy bóng dáng một người quen thuộc nhưng trên cánh tay có mang một
băng vải đỏ. Đó là hình ảnh tiêu biểu nhứt cho những ngày đầu gọi là “cách mạng”.
Chúng tôi, một nhóm giáo chức
của trường Đại học Sư phạm Sài Gòn gồm GS Nguyễn Văn Trường, GS Lý Công Cẩn, GS
Lê Trọng Vinh, GS Trần Kim Nở, GS Trần Văn Tấn, và người viết (đã ở khu cư xá
57 Tự Đức từ mấy ngày trước 30/4), đang ngồi với nhau để bàn thảo xem phải hành
động như thế nào, trình diện ra sao, vì hôm đó chỉ là ngày thứ hai của “cách mạng”,
tức thứ năm ngày 1/5/1975.
Tình cờ GS Nguyễn Hoàng
Duyên, một thành viên của Ban Hóa học của trường lái Honda đến. Tôi đề nghị với
các GS huynh trưởng để tôi cùng Duyên lên trường xem xét tình hình trước.
Hai anh em đèo nhau trên chiếc
Honda dame, mỗi người một tâm trạng bất an, nhưng vẫn không lộ ra. Khi vào khỏi
cổng trường, không khí hoàn toàn khác, không còn một không khí quen thuộc như
ngày nào. Một cảm giác nặng trĩu nơi tôi
khi nhìn thấy một Giảng nghiệm viên thuộc Ban Vạn vật mang băng vải đỏ nơi cánh
tay, chận chúng tôi lại, và hỏi với nét mặt lạnh lùng:”Hai anh vào ghi tên
trình diện đi”.
Bước vào một phòng thí nghiệm
hóa học, tôi lại thấy anh Nguyễn Minh Hòa (hiện nay là Trưởng khoa Hóa ĐH Sư phạm
“tp HCM”, người đã từng tuyên bố là nhờ cách mạng mà vợ tôi mới…mang thai được
và tôi có con nối dòng(!)), một giảng nghiệm viên của tôi, cũng mang băng đỏ
trên cánh tay hỏi tôi bằng một giọng lạnh lùng, không còn kính trọng như những
ngày trước đó. Dĩ nhiên là tôi ghi tên và bước ra ngoài.
Đi lần đến văn phòng Phó
Khoa trưởng, cửa mở toang, tôi thấy Ngô Phàn, một sinh viên Ban Lý hóa của trường
đã chạy vào bưng hai năm về trước. Phàn hỏi tôi, trên tay cầm khẩu súng lục nhỏ
của GS LCC: “Anh có gặp Ô C. không? Tôi đáp:” GS LCC sẽ vào trình diện sáng
nay”.
Quan sát chung quanh sân trường,
tôi chí thấy vài chị “nhà quê” quấn khăn rằn trên cổ, vẻ mặt thể hiện nét thỏa
mản của kẽ chiến thắng bước qua lại, chỉ chỏ các “anh” đeo băng đỏ mà trước đó
chỉ vài ngày là những giáo sư của VHCH. Ngoài ra, không thấy bóng dáng của một
“cán bộ” hay “bộ đội” của Bắc Việt nào cả.
Tôi và Duyên đi về báo cho
các GS đang chờ đợi ở cư xá Tự Đức. Sau đó mọi người lên trường trình diện.
* * *
Một tháng sau, mọi sự đi dần
vào ổn định, nghĩa là mọi thủ tục kiểm soát, kiểm tra đã hoàn tất, số giáo sư của
trường được chia ra làm hai nhóm rõ rệt:
- 1-
Các giáo sư đeo băng đỏ trong những ngày đầu trở thành các Tổ trưởng và Tổ
phó học tập trong đó Tôn Nữ Thị Ninh là một Tổ trưởng sáng giá nhứt, và
- 2-
Số giáo sư còn lại chiếm đa số là Tổ viên.
Chúng tôi bắt đầu chương
trình “học tập” tại chỗ với mỗi tổ khoảng trên dưới 20 người, trong đó, ngoài Tổ
trưởng, Tổ phó còn có một GS hướng dẫn học tập mới vào từ miền Bắc. Nơi trường
Sư phạm, các “giáo sư” đó đến từ trường ĐHSP Vinh, trong đó, “một cháu ngoan của
Bác” tên Trần Thanh Đạm làm Hiệu trưởng, “GS” Cao Minh Thì làm Hiệu phó, “GS”
Nguyễn Văn Châu và một số “GS” khác như Yến, Thoa …và một số khác tôi không còn
nhớ tên. Tuy nhiên, một người Trưởng ban tổ chức mà tôi không bao giờ quên được,
đó là Bảy Được, một công an chánh gốc, mà sau nầy đã hỏi cung tôi cùng với một
sĩ quan cấp tá công an là chồng của giáo sư Yến nói trên.
Dĩ nhiên những buổi học tập
trên có tính chất giáo điều, diễn ra trong tẽ lạnh vì thái độ bất hợp tác của
đa số giáo sư, ngoài những câu hỏi cò mồi của “đám gs đeo băng đỏ”. Tuy nhiên cũng có những giây phút sôi nổi vì các
câu hỏi “móc lò” của một số GS trẻ như Duyên và Tuấn làm cho “đám ba mươi” cứng
họng, vì họ làm sao có khả năng giải đáp được trong khi chứa trong đầu một tâm
thức nô lệ!
Một kỷ niệm tôi còn nhớ đến
hôm nay sau 36 năm là buổi đúc kết học tập. Tổ trưởng của tôi là một tiến sĩ
cũng tốt nghiệp bên Pháp và là Phó ban Hóa học thời VNCH tên Nguyễn Thị Phương.
Trong suốt thời gian “học tập”, Cô Phương thường đi bên cạnh môt “nồng cốt” thực
sự, tên Bùi Trân Phượng, con một giáo sư Việt Văn bên Đại học Văn khoa. Cô nầy
luôn luôn mặc áo bà ba và quần lãnh đen và cũng “bắt chươc” túi sách cán bộ sau
lưng. Cô luồn kế cận “anh” Ba Trực của thành ủy. Trong thời gian nầy, Phượng
còn là sinh viên, nhưng ở thời điểm hiện tại, Phượng là một “tiến sĩ” làm việc
giữa Sài Gòn và Boston…
Tôi được xướng danh đọc bài
bài đúc kết học tập đầu tiên. Vì đã chuẩn bị trước, tôi đã nhờ người học trò
“ruột” hiện ở Vancouver soạn thảo, ghi lại tất cả những lời “Bác Hồ dạy” “Bác
Tôn dạy” cùng các phát biểu của “Chú Duẩn” v.v…Tất cả được học trò tôi đúc kết,
ráp nối trên 30 trang giấy…
Và trong suốt buổi đúc kết,
tôi là cây đinh trong đó. Tôi đã chiếm hết giờ dành cho Tổ để đúc kết. Do đó,
sau khi thảo luận bài đúc kết, vì đã hết giờ cho nên các đồng nghiệp còn lại của
tôi được ra về khoan khoái vì đã tránh
được nói lên những điều ngược với lòng mình…
Trong suốt những ngày tháng gọi là “học
tập”, thỉnh thoảng cũng có những cán bộ cao cấp từ ngoài Bắc vào như Cù Huy
Cân, Xuân Diệu, và nhiều người khác…giảng dạy về thiên đường cộng sản.
Một hôm, tại giảng đường II
của Đaị học Khoa học có sức chứa gần 500 người, nhà thơ tình lãng mạn “ngày
xưa” Xuân
Diệu đăng đàn. Có thể nói, chưa bao giờ tôi có thể hình dung được một cán bộ
cao cấp của cộng sản, từng giữ chức Thứ trưởng Văn hóa (?) Bắc Việt có những
thái độ và cung cách thiếu văn hóa như thế.
Ông
Xuân Diệu, với cái áo sơ mi bò ngoài, mang đôi dép lẹp xẹp, vai mang cái bị da
cán bộ…chễm chệ ngồi trên cao…tự do phát ngôn. Bên cạnh đó hai chai bia Con Cọp
BGI 75cc và một ly lớn. Vừa uống, vừa nói, tay chân “quênh hoang” với luận điệu
của kẽ chiến thắng…
Và những câu nói ngày hôm đó
là bài học …đầu tiên của tôi sau
“cách mạng” như tựa đề của bài viết nầy và hình ảnh cây cổ thụ minh họa.
Ông ta nói cái gì?
Xin thưa,
Ông ta chê chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là giới trí thức miền Nam,
giới giáo sư đại học…và ví tất cả như những cây cổ thụ xum xuê cành là…nhưng không
có rễ. (Xin các giáo sư có mặt ngày hôm đó, hiện đang ở hải ngoại làm
chứng dùm cho tôi, kẻo
tôi bị nói oan là bêu xấu chế độ ưu việt bằng triệu lần tư bản).
Sau 36 năm, nghiệm lại câu
nói năm xưa của một thi sĩ “thương cha
thương một, thương ông thương mười”của Tố Hữu, người bạn của Xuân Diệu, lòng
tôi chùng xuống và cảm thương cho một người lớn lên trong “cách mạng”, được
“cách mạng” nuôi dưỡng… cho nên mới có ý so sánh đầy ‘biện chứng” trên.
Ba mươi sáu năm qua, bây giờ
cả thế giới mới thực sự thấy rõ hình ảnh Việt Nam ngày nay, hình ảnh nầy đã chứng
minh rành rành qua một đất nước tan hoang từ xã hội băng hoại cho đến đạo đức
suy đồi, trong đó giáo dục thể hiện tất cả những gì tồi tệ nhứt như thầy trò,
cô trò…có thể trao thân vì những đổi chác cho một kỳ thi, hay một mãnh bằng,
chưa kể những tệ hại khác không cần phải nêu ra đây. Có thể nói trong lịch sử giáo dục Việt Nam chưa có thời đại nào đưa đến
sự đão lộn luân thường đạo lý như giai đoạn hiện tại của Đất và Nước như hôm
nay.
Bài học đầu tiên của Xuân Diệu
36 năm về trước về cây cổ thụ cần phải được xem xét lại.
Kết luận của bài tản mạn nầy
cần phải nói cho rốt ráo là “Cây cổ thụ xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện tại là một cây chết khô,
không hoa, không lá, không rễ, và thân cây đã mục nát, thậm chí mối và mọt cũng
không còn gì có thể gậm nhấm được”.
Mai Thanh Truyết
Bài đầu tiên của thời “gác
kiếm”
8/2011
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen