VHNT07192014.mp3
Từ
nhiều năm qua báo chí thường xuyên nhắc nhở tới cách ứng xử của người
dân qua những hành xử thông thường nơi công cộng hoặc các hành động mang
tính văn hóa giữa cộng đồng.
Những
bài viết này luôn nhận được phản hồi tích cực từ người đọc nhất là nơi
bị chỉ trích tuy nhiên sau khi tờ báo được cất hay cũ đi, tất cả mọi thứ
trở về với trạng thái cũ, tức là cảnh gấu ó ngoài đường, tranh giành
nhau một chỗ đứng, sẵn sàng buông ra lời tục tĩu nếu một người nào đó vô
ý đụng chạm tới thân thể hay
tài sản của mình. Tất cả những thứ ấy được gói gọn vào bốn chữ văn hóa
ứng xử, cụm từ mà trước đây vài chục năm không ai cảm thấy cần phải bàn
tới.
Một nếp gấp lớn
Giáo
Sư Nguyễn Đăng Hưng một Việt kiều Bỉ không ngạc nhiên khi báo chí đặt
vấn đề sự khác nhau trong văn hóa ứng xử giữa Sài Gòn và Hà Nội. Có một
nếp gấp rất lớn giữa hai thành phố mặc dù cùng là người Việt như nhau:
“Tôi
thấy những nhận xét ấy không sai đâu. Chính bản thân tôi khi về Việt
Nam
thì tôi cũng có lớp đào tạo tại Hà Nội cũng như trung tâm đào tạo tại
Sài Gòn. Hai mươi năm gần đây thường thường mỗi năm tôi về Việt Nam ở Hà
Nội thì hai lần mỗi lần ba tuần. Ở Sài Gòn tôi cũng về hai lần mỗi lần
một tháng. Quê tôi ở miền Trung nên toàn bộ nước Việt Nam tôi đều không
những bước chân tới mà còn hào mình với nhân dân các vùng.
Phải
nói rằng cái văn hóa thanh lịch của Tràng An phải thừa nhận rằng tại Hà
Nội chính bản thân tôi cũng rất ngạc nhiên vì không như mình đã tưởng
tượng mà nó đã mất đi cái sắc thái chốn kinh kỳ, văn hóa Tràng An của
dân tộc Việt nó mất đi bản sắc rất nhiều.”
Lý do tại vì cái văn hóa dân tộc, văn hóa truyền thống bị phai nhạt bởi chính sách, cơ chế của nhà nước nó bài bác nó coi những văn hóa đó là sản phẩm của thời kỳ phong kiến, thời kỳ tiểu tư sản.
-GS Nguyễn Đăng Hưng
Tại
miền Nam, nền văn hóa phương Tây đã vào theo cùng với bước chân thực
dân Pháp. Cung cách đi đứng, ăn nói cũng như đối xử với người khác dần
dần ăn sâu vào tính cách người Việt qua sự chung đụng với nhau trong xã
hội. Trẻ em tới trường
được thầy cô giáo dạy dỗ trước tiên là sự kính trên nhường dưới rồi sau
đó mới tới việc tiếp thu các bài học vỡ lòng. Học sinh được cấy vào tâm
hồn trong trắng thứ giáo dục nhân bản và sau nhiều năm ngồi trên ghế
nhà trường, cách ứng xử phải phép đã hình thành một cách tự nhiên trong
đời sống hàng ngày và cả xã hội làm theo một cách vô thức. Người miền
Nam có cái may mắn ấy và Sài Gòn là nơi bộc lộ tính cách văn minh rõ rệt
nhất.
Trong
khi đó miền Bắc lại không may mắn như thế. Suốt nhiều năm sống trong
chiến tranh, mọi tinh hoa từ thời Pháp để lại đều bị triệt hạ. Mọi cung
cách trang nhã đều bị lên án, mọi cử chỉ trịnh trọng
được xem là bắt chước bọn sen đầm. Cả xã hội quay cuồng với chủ nghĩa
cộng sản vốn thù hằn gay gắt trí thức tiểu tư sản. Giai cấp tiều tư sản
chính là thành phần thu nhận văn hóa tây phương một cách triệt để và ảnh
hưởng của nền văn hóa ấy đã tạo nên một tầng lớp tinh hoa hay ít nhất
cũng đáng được gọi là có văn hóa theo nghĩa rộng nhất.
Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng nhận xét về điều mà ông gọi là nền văn hóa bị thế chấp:
“Lý
do tại vì cái văn hóa dân tộc, văn hóa truyền thống bị phai nhạt bởi
chính sách, cơ chế của nhà nước nó bài bác nó coi
những văn hóa đó là sản phẩm của thời kỳ phong kiến, thời kỳ tiểu tư
sản. Thời kỳ văn hóa du nhập từ Tây phương cho nên họ bài bác và họ lại
đem những văn hóa khác để thế chấp. Những văn hóa này hơi thô kệch, giản
dị vê những quan niệm ứng xử nó phát xuất từ Trung Quốc và có thề phần
nào ở Liên Xô thời trước.”
Nếu
các nước trong khu vực tỏ ra ngày một gần hơn với văn hóa ứng xử Tây
phương thì Việt Nam do hoàn cảnh lịch sử lại chọn Trung Quốc và Liên xô
cũ để làm điểm tựa. Nếu nhiều ngàn năm sống trong không khí Khổng Mạnh
người Việt không hề bị đồng hóa thì chỉ chưa đầy 80 năm sống gần với văn
hóa “lợi ích cốt lõi” của
người Tàu, không ít người Việt tại miền Bắc đã bị biến dạng. Họ không
nói hay viết tiếng Tàu nhưng cách đi lại nói năng hầu như không khác mấy
với phim Tàu chiếu thường trực trên các kênh truyền hình lớn nhỏ của
miền Bắc.
Cung
cách lễ lạc tại miền Bắc bị ảnh hưởng rõ rệt văn hóa mê tín dị đoan du
nhập từ Trung Quốc. Những hình thức cúng tế xin xỏ điều lợi lộc được nhà
nước công khai cổ vũ, thúc đẩy và tạo cơ hội cho dân chúng tiếp cận mà
khai ấn đền Trần hàng năm là một ví dụ.
Phim
Tàu, mê tín cũng tràn ngập miền Nam nhưng có lẽ nhờ chút
miễn nhiễm từ một nền văn hóa do Pháp để lại, cộng với khí chất sông
nước phương Nam đã khiến cho số lớn người dân miễn nhiễm với nền văn hóa
ô hợp phương Bắc.
Phố hoa Hà Nội Tết 2009 bầm dập vì người dân chen nhau chụp ảnh, bẻ trộm hoa.
Vào
Sài Gòn người ta khó gặp cảnh người ăn xin bị xua đuổi một cách tệ hại
như tại Hà Nội. Tại Hà Nội người ta có thể kéo áo nhau giữa đường để đòi
nợ nhưng ở Sài Gòn thì con nợ chủ động than thở với chủ nợ và chờ đợi
sự cảm thông.
Một
gánh rau bán ế có thể được người mua thông cảm tại Sài Gòn nhưng khó mà
tìm một cái chắt lưỡi của người Hà Nội. Tất cả những khác biệt khó nhận
ra
ấy đã hình thành hai nền văn hóa ứng xử trái ngược. Không phải giai cấp
xã hội hình thành cách ứng xử ấy mà chính là nền văn hóa ngoại nhập đã
xô đẩy người dân vào quỹ đạo của những tật nguyền văn hóa.
Kinh
tế gia Bùi Kiến Thành, một Việt kiều sống và làm việc nhiều năm tại Hà
Nộ có cơ hội quan sát và sống cùng với người dân thủ đô đưa ra nhận xét
của một người gốc gác miền Nam như sau:
“Trong
Nam thì đất rộng người thưa, bao nhiêu năm nay cuộc sống rất là thoải
mái khác với miền Bắc đất hẹp người đông cho nên việc tranh giành nhau
nó có lẽ khác
biệt hơn trong Nam.
Ở
ngoài Hà Nội thì một cái nhà ngang 3-4 mét bề sâu thì 5-10 mét đó là
nhà phố cổ như vậy từ bao nhiêu lâu nay rồi. Trong Nam thì đất rộng hơn
nhà thì 5-7 mét chiều ngang, hai ba chục mét chiều sâu… vì vậy cho nên
cái không gian trời đất cho mình nó ảnh hưởng không gian trong đầu óc
của mình nên nó thoáng hơn.”
Trừng phạt người vi phạm?
Không
riêng chốn công cộng mới có chuyện gây gỗ, thóa mạ hay tấn công lẫn
nhau mà nơi công sở cũng đầy dẫy hiện trạng bê bối của
cách hành xử. Có lẽ do cảm nhận được sự nguy hiểm khi danh tiếng Tràng
An bị đánh mất, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã soạn thảo một thông
tư có nội dung “khung hệ thống các quy tắc ứng xử tại nơi làm việc, nơi
công cộng”
Theo
báo Lao Động thì quy tắc này đặt ra các biện pháp trừng phạt người vi
phạm nhằm thiết lập dần lối sống chuẩn mực của một xã hội văn minh lịch
sự.
Nếu
hình thức chỉ xử phạt để dẫn dắt người dân trở về con đường văn minh
lịch sự như tờ báo mô tả thì chắc chắn sẽ không tiến tới một kết quả nào
dù nhỏ nhất, mà
trái lại có thể gây thêm hố chia rẽ giữa người có và người không có văn
hóa ứng xử.
Chúng ta cứ ngẫm nghĩ chậm rãi, từ từ chúng ta sẽ thấy nó như thế nào. Đó là hàng chục năm nay chúng ta mơ ước xây dựng thành công con người mới xã hội chủ nghĩa và khủng khiếp thay chúng ta đã thành công.
-Đỗ Trung Quân
Làm
sao có thể viết giấy phạt khi một người không biết nói cám ơn? Mặc dù
ai cũng biết hai tiếng cám ơn và xin lỗi là
căn bản nhất cho bất cứ nền văn hóa nào trong cung cách ứng xử, thế
nhưng muốn cả xã hội ý thức được điều ấy thì không một sự trừng phạt nào
có thể được chấp nhận ngoại trừ giáo dục người dân ý thức và thực hành
nó trong trạng thái phản xạ bình thường.
Xử
phạt người không nói cảm ơn là vi phạm hiến pháp bởi không một luật lệ
nào dù của một bộ lạc sơ khai lại mang một người không hề vi phạm pháp
luật ra để mà xử phạt. Cám ơn hay không cám ơn không hình thành bộ mặt
văn hóa, nó chỉ là một góc của toàn cảnh và thiếu nó trong một bối cảnh
nào đó người ta chỉ có thể cảm thấy bị xúc phạm một cách lặng lẽ chứ
không bao giờ gây
ra hậu quả nào có hại cho cộng đồng.
Cũng
giống như câu chuyện bún mắng cháo chửi chỉ xảy ra tại Hà Nội. Người
mua hàng không cần biết tự trọng khi chấp nhận thái độ khinh người của
chủ quán để ăn một bát bún có thể ngon hơn nơi khác nhưng sự mất mát sau
bát bún ấy không ai có thể tính toán một cách chính xác nó như thế nào.
Những
ngôn từ thô lỗ có làm cho khách cảm thấy bị sỉ nhục hay không chính là
thước đo lòng tự trọng của họ. Khi lòng tự trọng bị đánh đổi chỉ với một
bát bún thì nhân phẩm của người ngồi nghe chửi để được ăn ấy chắc
không hơn giá trị một bát bún 20 ngàn tiền Việt Nam.
Văn
hóa ứng xử đến từ nhân cách của mỗi con người trong tập thể xã hội. Nỗ
lực cải cách nhân cách bằng hình thức xử phạt chỉ nói lên sự bất lực lớn
lao của nền giáo dục và chính sách gìn giữ bảo tồn văn hóa của nhà
nước. Nếu xét kỹ từng sự kiện rời rạc thì sẽ không khó để nhận ra rằng
chính những cán bộ trong hệ thống cầm quyền lại là những cá nhân cần
điều chỉnh lại nhân cách nhất.
Những yếu tố khiến dân chúng vô tình bị ảnh hưởng đó là cung cách sống, phát ngôn, hành xử và ban bố
luật pháp tùy tiện của cán bộ cao cấp của hai thành phố.
Nếu
Sài Gòn ít bị than phiền về thói xấu có tính hệ thống ấy thì Hà Nội lại
dày đặc các mẩu tin về phát ngôn trái khoáy khiến dân chúng lâu dần
không cảm thấy lạ lùng nữa. Đã không lạ lùng mà còn được xem là bình
thường và từ đó ăn sâu vào tiềm thức hình thành nên thói quen xem thường
người khác như quan cán bộ xem thường dân chúng.
Nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng tầng lớp di dân vào thành phố đã biến dạng văn
hóa ứng xử của người dân thủ đô. Thật ra di dân các tỉnh kéo về Sài Gòn
đông hơn Hà
Nội vậy mà nó vẫn dung chứa và sống cùng với những con người khốn khổ
ấy gây mối tương quan xã hội trên cách hành xử đậm tình người hơn cách
mà người dân Hà Nội đã làm.
Người
ta còn nhớ câu chuyện cướp hoa của người dân Hà Nội chung quanh Hồ Gươm
vào đầu năm nay. Trong khi người dân Sài Gòn hằng năm vẫn tổ chức những
chợ hoa khổng lồ mà không hề xảy ra sự đáng tiếc nào thì tại Hà Nội
người dân hành xử hoàn toàn khác hẳn. Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng chia sẻ
điều mà theo ông cốt lõi vấn đề bắt đầu từ sự kiện cải cách ruộng đất:
“Ngay
cả ông Tô Hoài cũng đã viết rất nhiều sách về cái cảnh con tố cha vợ tố
chồng thời kỳ cải cách ruộng đất. Đây là điều làm suy sụp văn hóa
truyền thống. Cái văn hóa dở hơi này nó xuất hiện rất sớm ở miền Bắc và ở
miền Nam sau năm 75 cho nên cái bề dày ảnh hưởng văn hóa ở miền Bắc nó
nặng nề hơn miền Bắc tệ hơn miền Nam về vấn đề thanh lịch, lễ phép và
lịch sự. Bằng chứng là ở Sài Gòn này chợ hoa Nguyễn Huệ đã có từ trước
năm 75 rồi sau này sau năm 75 mỗi năm đều có chợ hoa. Chợ hoa được dân
chúng thưởng lãm trân trọng tron ba ngày tết không có vấn đề gì. Trong
khi đó ở Hà Nội có một lần tổ chức chợ hoa, nhập vê một số hoa anh đào
của Nhật thì bị người dân Hà thành tới khuân về, chỉ một đêm là không
còn cái hoa nào cả.
Đó
mới thấy sự tôn trọng thẩm mỹ, tôn trọng thủ công tôn trọng nền văn hóa
không được thấm nhuần nữa. Người ta muốn chiếm đoạt, người ta muốn đem
về cho mình. Cái văn hóa kiểu ấy nó đã xuất hiện rất lâu tại miền Bắc và
còn tác hại cho tới bây giờ.”
Nhà
thơ Đỗ Trung Quân đưa ra một ý tưởng lý thú mà
ông cho rằng gói gọn trong một câu chuyện có vẻ tiếu lâm nhưng hoàn
toàn có thể áp dụng cho xã hội ngày nay khi mà nhà nước muốn đào tạo
những tầng lớp thanh niên hoàn toàn tránh xa chuẩn mực của văn hóa ứng
xử:
“Tôi
chỉ xin tổng kết bằng một câu, có thể rất hài hước nhưng hoàn toàn
chính xác. Chúng ta cứ ngẫm nghĩ chậm rãi, từ từ chúng ta sẽ thấy nó như
thế nào. Đó là hàng chục năm nay chúng ta mơ ước xây dựng thành công
con người mới xã hội chủ nghĩa và khủng khiếp thay chúng ta đã thành
công. Một câu nói hài hước có vẻ chỉ là đùa chơi thôi nhưng nó cho thấy
toàn
bộ câu hỏi của anh, và đó cũng là câu trả lời của tôi thưa anh.”
Dĩ
nhiên không phải ai sống tại Hà Nội cũng đều thiếu văn hóa ứng xử hay
tại Sài Gòn thì sẽ thành hòn ngọc Viễn Đông nhưng câu nói “con sâu làm
rầu nồi canh” vẫn làm cho cả nước xót xa cho một nền văn hóa không đáng
bị xem thường như thế.
Nền
văn hóa ứng xử thiếu xương sống ấy vẫn đang lan rộng trong từng giai
tầng Việt Nam. Nó như căn bệnh hoại thư, không thể chữa lành
nếu người bệnh không cảm giác bị đau đớn nơi vết thương trên cơ thể của
họ.
Cắt
bỏ một ung nhọt là việc làm quá dễ trong khi không cho ung nhọt xuất
hiện cần một nỗ lực hàng trăm năm, nhất là ung nhọt của một nền văn hóa
còi cọc và chấp vá bởi nhiều nền văn hóa khác.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen