Nguyễn Thanh Văn@S:
Nội trong ngày 26 tháng 11 vừa qua, hai tàu đánh cá
của ngư dân Việt Nam đã bị tàu Trung Quốc tấn công, cướp phá ngư cụ, ngư sản
nhiều lần tại khu vực biển Hoàng Sa. Những ngư dân khốn khổ Việt Nam phải lạy
lục bọn cướp biển mang danh nghĩa “cơ quan thi hành pháp luật Trung Quốc“, mới
được chúng tha cho mạng sống để cùng những con tàu đánh cá đầy thương tích “may
mắn“ về được đến bến nhà Quảng Ngãi trong nỗi hoảng loạn cùng cực. Nói “may mắn“
là vì đã bao nhiêu lần tàu đánh cá của ngư dân ta gặp tàu Trung Quốc, người thì
bị bắn giết, tàu thì bị đâm chìm ngay trên biển nhà.
Chuyện hai con tàu đánh cá của ông Đỗ Thành và Phạm
Ý vừa kể chỉ là hai trường hợp mới nhất trong hàng ngàn vụ “tàu lạ đâm chìm tàu
ta“ diễn ra suốt hơn 10 năm qua. Những chuyện thương tâm mà ngư dân Việt Nam
phải chịu đựng trong bối cảnh như được ngư dân Đỗ Thành kể lại: Nhà nước kêu
đi ra Hoàng Sa để bám biển giữ cho Nhà nước thì mình ra làm chứ có biết gì đâu!
Chỗ nào Nhà nước bảo đi làm thì mình đến thôi. Đi đánh bắt thì chẳng có tàu hải
quân nào bảo vệ“(1). Chắc chắn cảnh này sẽ còn tiếp diễn ngày nào đảng CSVN
còn coi Bắc Kinh "vừa là thầy vừa là anh". Thái độ của lãnh đạo đảng CSVN trước
việc Trung Quốc gặm nhấm dần chủ quyền biển đảo Việt Nam từ xưa đến nay đã chứng
minh quá rõ điều này.
Chính vì vậy mà dân chúng bật ra nhiều câu hỏi khi
thấy tại kỳ họp quốc hội vừa qua, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố đối sách
trên biển Đông của Việt Nam là: “Vừa hợp tác, vừa đấu tranh“ với Trung
Quốc. Hợp tác như thế nào? Đấu tranh ra làm sao?
Về phía Trung Quốc thì những hành động thù nghịch,
gây rối liên tục trên biển Đông của họ gần như đã được các cơ quan truyền thông
nhiều nước đề cập đến thường xuyên, nên có lẽ không cần liệt kê chi tiết nữa.
Nhưng có thể tóm gọn bằng lời nhận định của Đô Đốc Locklear, Tư lệnh Bộ Chỉ Huy
Mỹ ở Thái Bình Dương, trong cuộc họp báo tại Trung tâm Đông-Tây, Hawaii hôm 28-8
rằng: những hành động của Trung Quốc ở biển Đông là những hành vi khiêu khích,
gây rối và vô trách nhiệm (2).
Về phía Việt Nam thì phải kể đến hai loại phản ứng:
từ phía dân chúng và từ phía nhà cầm quyền. Đối với người dân, trước những vụ
tàu ngư dân ta bị bọn giặc Tàu hiếp đáp trên vùng biển của ta đến nỗi ngư dân ta
phải lạy chúng mới tha, người Việt khắp nơi không chỉ thấy đau lòng mà còn phẫn
nộ. Nếu phẫn nộ về sự tàn ác và khiêu khích trắng trợn của Tàu một, thì phẫn nộ
gấp mười những kẻ cầm quyền Việt Nam cực kỳ hung tợn với đồng bào mình, nhưng
lại vô cùng hèn nhát với giặc. Bởi vậy câu ’’hèn với giặc, ác với dân“ đã trở
thành câu nói nằm lòng của dân chúng khi nói về chế độ. Đối với dân chúng thì
chế độ tại Việt Nam chỉ có được một sản phẩm tốt, đó là đoạn băng phản đối Trung
Quốc của người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam. Dù đã phát đi phát lại không
biết bao nhiêu lần nhưng vẫn “tốt“ như lúc đầu, không sai lấy một
chữ.
Còn phản ứng của nhà cầm quyền là đùn cho ngư dân
tay không ra bám biển để bảo vệ chủ quyền đất nước. Quân đội dù đã được chi biết
bao ngân quĩ quốc gia để sắm mua vũ khí nhưng tất cả được lệnh “không làm phức
tạp thêm tình hình” nên chỉ ngồi trên bờ để quan sát và gắn thêm hàm tướng cho
nhau. Ở cấp lãnh đạo thượng tầng, họ chỉ biết thay nhau ca ngợi tầm quan trọng
của “tình hữu nghị Việt – Trung“. Tướng Phùng Quang Thanh đã nói như vậy tại Hội
Nghị Bộ Trưởng Quốc Phòng các nước ASEAN. Không những thế, trong khi các quốc
gia đều quan tâm đến tình hình Trung Quốc gây bất ổn ở biển Đông và thương cảm
Việt Nam thì tướng Thanh coi những “va chạm“ với Trung Quốc là “chuyện gia đình“
(như hàm ý Việt Nam là một phần của Trung Quốc theo đúng tinh thần Hội nghị
Thành Đô). Điệp khúc ca ngợi tầm quan trọng của “tình hữu nghị Việt – Trung“
cùng “16 chữ vàng“ cũng được các giới chức cao cấp cả Việt Nam lẫn Trung Quốc
lập lại sau chuyến 13 tướng lãnh Việt Nam và tướng công an Trần Đại Quang sang
chầu Bắc Kinh.
Từ vụ giàn khoan Hải Dương 981 vào mùa hè năm nay,
Bắc Kinh đã chứng minh cho cả thế giới thấy họ muốn đưa giàn khoan vào lãnh hải
của Việt Nam lúc nào thì đưa, muốn rút đi lúc nào thì rút, và nay đang công khai
chuẩn bị đưa 9 giàn khoan mới vào biển Đông sau mùa biển động. Cùng lúc, Bắc
Kinh tiếp tục ngang nhiên gia tăng việc bơm cát mở rộng, tôn tạo các đảo, các
bãi ngầm mà Trung Quốc đã lấn chiếm thành những căn cứ quân sự; tiếp tục tông
chìm tàu bè, hiếp đáp ngư dân Việt Nam.
Trong khi đó, lãnh đạo Việt Nam chỉ biết tiếp tục
cho toàn đảng học tập “Mỹ mới là kẻ thù chính và lâu dài“; và tiếp tục chính
sách “ba không“ về quốc phòng (3).
Rõ ràng thực tế suốt một thập niên qua cho thấy:
BẮC KINH KHÔNG HỀ HỢP TÁC và HÀ NỘI CHẲNG HỀ ĐẤU TRANH.
Qui luật trên đã được ông Nguyễn Phú Trọng gián
tiếp xác nhận một lần nữa trong buổi tiếp xúc với “cử tri“ Hà Nội vào ngày
6/12/2014: “Xung quanh vấn đề biển Đông có ý kiến nói là chúng ta mềm quá
phải kiên quyết hơn nữa. Vậy kiên quyết hơn thì phải làm thế nào? Đây là vấn đề
rất lớn và trung ương chỉ đạo chặt chẽ. Trong thời gian Trung Quốc hạ đặt trái
phép giàn khoan thì Bộ Chính trị họp liên tục. Chúng ta phối hợp rất nhiều biện
pháp, huy động sức mạnh tổng hợp để đấu tranh...“(4). Đây là bài học thuộc
lòng bất biến được dùng trong suốt một thập niên qua, nếu dịch ra tiếng Việt chỉ
có nghĩa là không có việc làm cụ thể nào cả! Hay nói cách khác, lãnh đạo đảng đã
họp vô số lần nhưng không biết phải làm gì cả! Ngay cả quốc hội Việt Nam cũng
không dám ra một nghị quyết nào về biển Đông, mà phải chờ quốc hội Mỹ ra nghị
quyết rồi “ăn theo“.
Chính vì thế mà nhiều chuyên gia Việt Nam đã vô
cùng chán nản khi góp hết tâm huyết cố thuyết phục việc kiện Trung Quốc ra trước
quốc tế để bảo vệ chủ quyền, nhưng Hà Nội vẫn chỉ ngồi bất động. Hà Nội không
dám kiện, nhưng lại “ăn theo“ Phillipine khi nước này kiện Trung Quốc. Hôm 5/12
vừa qua, Hà Nội chuyển đến Toà án Trọng tài Thường trực (Permanent Court of
Arbitration – PCA) một tuyên bố chính thức về các "quyền lợi ích" của mình ở
Biển Đông. Một việc mà Giáo sư Thayer, một chuyên gia về các vấn đề Việt Nam,
gọi là “kiện cửa sau“ (5) và chỉ là “hành động tối thiểu“ mà Hà nội dám làm.
Lãnh đạo đảng không dám nhắc đến cả từ "chủ quyền Việt Nam" trong công văn nói
trên.
Tóm lại, “vừa hợp tác vừa đấu tranh“ của lãnh đạo
đảng CSVN là như thế. Nghĩa là vẫn theo sát lời dạy của đại sứ Trung Quốc Tôn
Quốc Tường trong cuộc họp báo tại Hà Nội đầu năm 2010: “Hợp tác sẽ phát
triển, đấu tranh sẽ thất bại“(6).
Trong bài “Tháng 12 ngoài Gạc Ma“ trên trang
điện tử báo Thanh Niên ngày 07/12 (7), nhà báo Mai Thanh Hải đã thuật lại, khi
những người lính trên tàu HQ-011 Đinh Tiên Hoàng đến gần đảo Gạc Ma trong một
chuyến công tác, nhìn thấy Trung Quốc chỉ trong vài tháng đã biến đổi bãi đá san
hô ngầm mà họ đã đánh chiếm trái phép từ tay những người lính hải quân nhân dân
Việt Nam, thành căn cứ quân sự của họ. Các chiến sĩ hải quân tàu HQ-011
“Khuôn mặt ai cũng sắt lại, uất ức, từ vị đại tá già cho đến cậu chiến sĩ mới
nhập ngũ. Đây Gạc Ma - bãi đá thiêng liêng của Tổ quốc đã bị Trung Quốc bất ngờ
nổ súng tấn công, giết hại 64 cán bộ chiến sĩ công binh hải quân Lữ đoàn 83, Lữ
đoàn 146 bảo vệ đảo Trường Sa, Học viện Hải quân, Đoàn đo đạc bản đồ Bộ Tham mưu
hải quân, Lữ đoàn tàu 125, và bắn cháy, bắn chìm 3 tàu vận tải HQ-604, HQ-605,
HQ-505 của chúng ta, trong buổi sáng 14.3.1988.“
Điều mà có lẽ nhà báo Mai Thanh Hải và các chiến sĩ
trên tàu HQ-011 không biết là sự bi thương vừa kể cũng đến từ sự “hợp tác“ của
Bộ Chính Trị đảng CSVN với Bắc Kinh qua lệnh “không được nổ súng“ để tự vệ và
bảo vệ Gạc Ma. Trước đó nữa là “sự hợp tác“ bằng công hàm Phạm Văn Đồng; và sau
đó là hội nghị Thành Đô, các hiệp định phân định biên giới trên bộ và trên
biển,... Tất cả đã đặt nền tảng cho tình cảnh biển Đông ngày hôm
nay.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen