Freitag, 4. Juli 2014

Từ Giàn Khoan HD-981: Việt Nam có thể sẽ “đón nhận” một “Hiệp định Da Beo” lần nữa!

 
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
 
Kể từ ngày Trung cộng hạ đặt giàn khoan HD-981 xuống ngay lãnh hải của Việt Nam, thì đã có rất nhiều những bài viết của người ngoại quốc lẫn người Việt Nam đã “tiên đoán” về những tình huống có thể xảy ra cho Việt Nam; Trong đó, cũng có nhiều ý kiến: “phải làm gì để hóa giải công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng”.

 
Về phía đảng Cộng sản Việt Nam, thì gọi đó là “công thư chứ không phải là công hàm và không có giá trị, vì công thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng, chỉ công nhận 12 hải lý của Trung quốc, chứ không nói gì đến hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa”. Ngoài những điều ấy, Hà Nội cũng nói “sẽ kiện” Trung cộng.
 
Về phía Trung cộng, thì chẳng những đưa cái “công hàm” của ông Phạm Văn Đồng, mà còn trưng dẫn cuốn “sách giáo khoa” của Hà Nội ra làm “bằng chứng chủ quyền” của Trung cộng. Ngoài ra, Trung cộng còn khuyến cáo: “Việt Nam phải tôn trọng công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng.”
 
Với những sự kiện nêu trên, thì khoan nói tới cái “công hàm - công thư” của ông Phạm Văn Đồng, mà chỉ nói lên một sự thật hiển nhiên rằng: Nếu không có cái “công hàm - công thư” của ôngPhạm Văn Đồng,  thì Trung cộng lấy cái gì “làm bằng” để ngang nhiên hạ đặt giàn khoan HD-981 xuống lãnh hải của Việt Nam, và cho đến hiện giờ còn đưa thêm 02 hay có thể còn nhiều giàn khoan khác  xuống lãnh hải của Việt Nam???
 
Chỉ chứng đó thôi, cũng đủ chứng minh rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước quốc dân đồng bào về cái “công hàm-công thư” của ông Phạm Văn Đồng “Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” có con dấu của “Chính phủ VNDCCH” đã gửi cho Chu Ân Lai vào ngày 14/9/1958, bằng một câu có tính cách quyết định như sau:
 
“Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công nhận quyết định chủ quyền của Trung quốc”. Như vậy, tất nhiên là bao gồm cả Hoàng Sa-Trường Sa của nước Việt Nam Cộng Hòa, mà cách đây hai năm, người viết đã nêu lên những sự kiện ấy, qua qua bài: Hoàng Sa-Trường Sa là của nước Việt Nam Cộng Hòa, nên ở đây, không cần phải viết thêm nữa.
 
Tuy nhiên, tất cả những gì đã xảy ra, thì đã xảy ra, nên cho dù là thánh cũng không thay đổi được quá khứ, mà phải tìm mọi kế sách hay giải pháp tốt nhất để thay đổi hiện tại và tương lai. Vì thế, tất cả những “diễn biến” bắt nguồn từ cái văn bản của ông Phạm Văn Đồng, đã do đảng Cộng sản “cột” vào “vận mệnh” của đất nước, thì tất nhiên chính kẻ cột phải biết cách để mở ra. Còn nếu như đảng Cộng sản Hà Nội không chịu “mở ra”, thì toàn dân sẽ bằng mọi cách, để “mở ra”, để cứu lấy đất nước và dân tộc thoát khỏi đại họa diệt vong!
 
Thế nhưng, cho đến thời điểm hiện nay, trước một tình huống khó lường trước mọi sự, thì đảng cộng sản Việt Nam nếu muốn  “mở ra”, thì phải “mở” bằng cách nào, vì khi “ông Chủ tịch nước” Hồ Chí Minh và cả “bộ chính trị” của Cộng sản Việt Nam vào ngày 14/9/1958, đã quyết định để cho “thủ tướng” Phạm Văn Đồng gửi cái “công thư-công hàm” cho Chu Ân Lai với nội dung mà hôm nay, không riêng người Việt Nam, mà cả thế giới đều biết.
 
Nên nhớ và nên biết, cá nhân ông Phạm Văn Đồng không dám, không có quyền tự ý quyết định khi viết và gửi văn bản này. Vì nếu tự ý, thì đảng Cộng sản Việt Nam phải dùng “đảng kỷ” để trừng phạt bằng những biện pháp cao nhất. Nhưng không, Phạm Văn Đồng vẫn ngồi trên chiếc “ngai” để cầm quyền cho đến khi chết thì vẫn có “Đại học Phạm Văn Đồng” “đường Phạm Văn Đồng” trên khắp cả ba miền của đất nước, để tuyên dương cái công trạng  của ông Phạm văn Đồng, với một văn bản chính thức: “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công nhận quyết định chủ quyền của Trung quốc”!  
 
Người viết xin nhắc lại:
 
Ngày 14 tháng 9 năm 1958,  “thủ tướng” Phạm Văn Đồng  đã bất chấp cả luật pháp quốc tế, khi ngang nhiên nhân danh:
 
“Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, kính gửi đồng chí Chu Ân Lai Tổng lý nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa” để ký-gửi một bản văn mà xem như là dâng hiến cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của nước Việt Nam Cộng Hòa cho Trung cộng. Một bản văn hoàn toàn bất hợp pháp; bởi vì theo nguyên lý thông thường, thì không một ai có quyền dâng, bán bất kể là một vật gì, dù nhỏ nhất của người khác, không thuộc quyền sở hữu của mình, và một người biết tôn trọng luật pháp, tôn trọng lẽ phải, thì không bao giờ chịu đi mua hay nhận  bất cứ một vật gì mà do một người không có quyền sở hữu đem dâng, bán cho mình.
 
Nhưng đây là chuyện giữa ba nước: Nước Việt Nam Cộng Hòa, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Bản văn của Phạm Văn Đồng, là “Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” lại dám ngang nhiên ký một cái “công hàm”, có con dấu của “Chính phủ nướcViệt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”  để đem dâng-bán một phần biển, đảo của nước Việt Nam Cộng Hòa cho Trung cộng, thì không phải riêng người bán, mà kể cả kẻ mua cũng đều vi phạm luật pháp quốc tế.
 
Năm 1958, Hoàng Sa-Trường Sa thuộc chủ quyền của Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Vì thế, Phạm Văn Đồng “Thủ tướng nước Việt Nam dân Chủ Cộng Hòa”,  không có một chút quyền, không có một tư cách gì để ký-gửi một văn bản như thế cho được.
 
Phải nhắc lại như thế, để hiểu rằng, đảng Cộng sản Việt Nam không thể đương đầu với Trung cộng, mà chỉ có Việt Nam Cộng Hòa mới đủ tư cách trước Công Pháp Quốc Tế, để giành lại hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Chính Hà Nội cũng thừa biết điều ấy, nhưng vì đã đặt quyền lợi riêng trên cả Tổ Quốc và Dân tộc, nên họ vẫn cứ thà mất nước, chứ không thể thay đổi thể chế chính trị!
 
Đừng ỷ vào ngoại bang
 
Mới đây, một câu nói của cậu Cộng con, không hề có một chút kiến thức về chính trị,  nên không muốn nêu tên vào đây làm gì. Tuy nhiên phải ghi lại câu trả lời khi được cô Trà Mi của đài VOA phỏng vấn như sau:
 
“Khi Việt Nam và Mỹ thực sự cần đến nhau thì không có việc bỏ rơi nhau. Mỹ và Việt Nam là bạn của nhau cùng hợp tác phát triển về mọi lãnh vực chứ không phải riêng về Kinh tế”.
 
Câu trả lời này, đã chứng tỏ đây là một con người hoàn toàn không hề biết gì về chính trị và thủ đoạn chính trị cả. Những người có tham vọng chính trị, đều cần phải nghiên cứu thật kỹ về những thủ đoạn chính trị và những thành bại của các nhân vật nỗi danh khắp năm châu, cũng như những cuộc cách mạng đã xảy ra trên thế giới, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, dù có đổ máu hay «cách mạng nhung».
 
“Mỹ không bỏ rơi Việt Nam”; Nhưng chính Mỹ đã tạo dựng ra cái Hiệp định Paris,1973, mà mọi người thường gọi là “Hiệp định Da Beo”; bởi theo cái Hiệp định này, đã buộc Việt Nam Cộng Hòa phải chấp nhận “ngưng bắn tại chỗ”, ở những vùng đất do phía nào kiểm soát, thì vẫn cứ duy trì, không thay đổi. Nghĩa là cho phép quân đội Bắc Việt được “sống chung” tại miền Nam. Và  nước Việt Nam Cộng Hòa đã bị mất vì cái Hiệp định này!
 
Là người Việt Nam, có ai không biết đến Hiệp định Geneve, 20/7/1954 và Hiệp định Paris, 1973 về Việt Nam, với những nước đã ngồi vào, cùng ký bằng những lời “cam kết vàng ngọc” như thế nào. Thế nhưng, những gì đã xảy ra sau đó, dẫn đến tang thương, máu lệ suốt bao nhiêu năm qua, cũng như thảm trạng ngày nay trên đất nước Việt Nam, thì các nước đã từng tham gia và ký kết vào cái Hiệp định quái ác này có lên tiếng hay không???
 
Trong chính trị, vốn không có sự thỏa hiệp nào vĩnh cửu ; bởi một khi muốn “xóa bỏ” những “cam kết” trước đó, nếu một chính phủ với nội các mới lên thay quyền lãnh đạo đất nước, thì chính phủ ấy có toàn quyền để quyết định, giữ lại phần nào, hay xóa bỏ, nếu xét thấy có lợi cho quốc gia hơn.
 
Tiếc thay, những người đã và đang “tranh đấu” mà luôn luôn “đội” các cường quốc Âu-Mỹ lên đầu. Những điều ấy, đã chứng tỏ một cách chắc chắn: Các “nhà tranh đấu” theo kiểu này, họ không bao giờ đặt quyền lợi của Tổ Quốc và Dân Tộc lên hàng tối thương!
 
Nhân đây, người viết muốn nói thêm một cách chắn chắn rằng, Hoa Kỳ cũng như các cường quốc khác không bao giờ đưa quân đi đánh Trung cộng, để giành lại Hoàng Sa-Trường Sa cho Việt Nam, và đừng nghĩ Hoa Kỳ sẽ làm như những lời tuyên bố: “Nếu Trung quốc đánh chiếm đảo Điếu Ngư, thì Hoa Kỳ sẽ đánh chiếm lại cho Nhật Bản”. Điều này, hoàn toàn khác, vì Nhật Bản không có gửi cái “công hàm-công thư công nhận chủ quyền của Trung quốc” cho Trung cộng giống như cái công hàm của ông Phạm Văn Đồng. Vì vậy, chỉ có chính người Việt Nam phải đứng lên tự cứu lấy Quê Hương đất nước của mình. Và xin đừng quên: Không có một cường quốc nào thương một dân tộc khác, mà tất cả chỉ vì quyền lợi của họ mà thôi!
 
Về việc kiện Trung cộng ra Tòa án Quốc tế. Nói thì dễ, nhưng làm thì thiên nan, vạn nan, vì trước hết chính Hoa Kỳ đã lên tiếng rằng: “Hoa Kỳ đề nghị Việt Nam và TQ cùng rút hết tàu về và “Trung quốc đừng hung hăng trên biển Đông. Nên nhớ, Hoa Kỳ chỉ nói đến “Biển Đông” và đề nghị hai bên rút hết tàu về, chứ không nhắc đến Hoàng Sa-Trường Sa.
 
Mới đây, ông Jean-Vincent Brisset, cựu Tướng không quân của Pháp nay là Giám đốc nghiên cứu Viện quan hệ quốc tế và chiến lược của Pháp nói: “Việt Nam nên kiện Trung Quốc” ; Nhưng ông không nói rõ Việt Nam phải kiện như thế nào, để “thắng”, trong khi Trung cộng đã trưng dẫn công hàm của ông Phạm Văn Đồng đã gửi cho Chu Ân Lai vào ngày 14/9/1958, để làm bằng chứng “chủ quyền” của họ. Ngoài ra, Trung cộng cũng thách thức: “Nếu Việt Nam đi kiện, thì nhớ đem theo công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng”.
 
Cho tới thời điểm hiện nay, đảng Cộng sản Việt Nam đã “công nhận” hai Bia Chủ Quyền của Việt Nam Cộng Hòa tại Hoàng Sa và Trường Sa là “di tích lịch sử”; và cũng nói rằng “vào  năm 1958 Hoàng Sa - Trường Sa do chính quyền Việt Nam Cộng Hòa quản lý”.
 
Đó là những điều hiển nhiên, mà bây giờ đảng Cộng sản Hà Nội không thể nào chối cãi được, là đã biết Hoàng Sa-Trường Sa là của nước Việt Nam Cộng Hòa, mà đảng Cộng sản Hà Nội đã ngang nhiên viết và gửi cái công hàm có con dấu của “Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công nhận quyết định chủ quyền của Trung quốc”.
 
Vậy thì, cái gì của Việt Nam Cộng Hòa, thì hãy trả lại cho Việt Nam Cộng Hòa, để Việt Nam Cộng Hòa có đủ tư cách trước Công Pháp Quốc Tế mà đòi lại Hoàng Sa-Trường Sa. Và chỉ có Việt Nam Cộng Hòa mới có những hành động quyết liệt như: Đoạn giao với Trung cộng, đóng cửa biên giới Việt-Trung, như Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã từng làm đối với người Pháp. Đến lúc đó, thì không cần phải “trục xuất”, thì những đoàn quân Mã Viện, đã được ngụy trang dưới lớp vỏ bọc như “Học viện Khổng Tử” và các “Đặc khu kính tế” của Tầu cộng ở Hải Phòng, Vũng Áng, Cam Ranh, Tây Nguyên, Đà Nẵng, Bình Dương… cũng phải lo cuốn gói, “chui ống đồng” chạy khỏi nước Việt Nam. Còn nước “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” hậu thân của nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” không thể đối đầu với Trung cộng, dù bất cứ một tòa án Quốc tế nào, để giành lại Hoàng Sa-Trường Sa!
 
Chính vì những lẽ ấy, đừng bao giờ ỷ lại vào ngoại bang, mà người Việt Nam phải tự quyết định lấy tương lai của đất nước, vì nếu ngoại nhân “thương” những dân tộc nhược tiểu, thì Tân Cương và Tây Tạng không đến nỗi phải nằm trong bàn tay sắt máu của Trung cộng như cả thế giới này đã chứng kiến, cho dù máu của người Tân Cương và Tây Tạng đã đổ, bao nhiêu người đã gục ngã, họ đã tự đốt chết thân mình với hy vọng là đòi lại đất nước của họ. Những hành động hy sinh ấy thật đáng thương, đáng phục. Nhưng tiếc thay, tất cả đều vô ích, vì chẳng có Quốc tế nào đưa quân đi đánh Tầu cộng, để giành lại đất nước cho người Tân Cương và Tây Tạng ; bởi quyền lợi của các cường quốc không có ở trên đất của Tân Cương và Tây Tạng!
 
Thế nhưng, đối với Thái Bình Dương lại là chuyện khác. Xin nhấn mạnh là Thái Bình Dương, là Biển Đông, là cửa ngõ nằm trong vị trí chiến lược, thì các cường quốc trên thế giới không thể làm ngơ. Chúng ta đều biết, ngày xưa quân Pháp đã đổ bộ lên hải cảng Đà Nẵng, rồi quân đội Hoa Kỳ cũng đổ bộ lên Đà Nẵng, và tầm quan trọng của Vịnh Cam Ranh.
 
Tuy nhiên, Hoa Kỳ cũng như các cường quốc trên thế giới đều chỉ muốn giữ “tuyến hải hành” Thái Bình Dương hay Biển Đông, chứ không bao giờ đem máu xương, để giành giữ Hoàng Sa -Trường Sa cho Việt Nam, mà chính người Việt Nam phải bằng mọi cách để giành lại Hoàng Sa-Trường Sa. Thế nhưng, nếu có cuộc đụng độ lớn xảy ra, thì Hoa Kỳ và các cường quốc khác trên thế giới sẽ có những hành động thiết thực, để bảo vệ quyền lợi của họ trên Thái Bình Dương, hay Biển Đông. Còn nếu cuộc tranh chấp chỉ  bằng mồm, bằng “giải quyết song phương”, thì đó, chỉ là chuyện riêng của hai đảng Cộng sản  anh em một nhà”, nên người ngoài không thể can thiệp.
 
 
Tại sao nhà cầm quyền Hà Nội cứ câu giờ?
 
Như trước đây, cũng như hôm nay, Trung cộng vẫn tuyên bố theo như chính các báo trong nước như sau:
 
“(ANTV) - Cục Hải sự Trung Quốc vừa đưa ra thời gian công tác trên... Theo đó, giàn khoan Nam Hải 9 sẽ kết thúc tác nghiệp vào ngày 20/8.”
 
Tiếp theo, vào ngày 26/6/2014, các báo trong nước đã đăng những lời phát biểu của “Chủ tịch nước Trương Tấn Sang”. Xin trích một đoạn như sau:
 
 “ … Năm nay không xong thì năm tới, mười năm này không xong thì mười năm sau, đời ta không xong thì đến đời con cháu, phải dứt khoát như vậy. Trước sau như một, vấn đề chủ quyền là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, “Tuổi trẻ dẫn lời chủ tịch nước nói.”(*)
 
Và hôm nay, ngày 01/07/2014,  các báo trong nước đã đăng tải những lời của ông Nguyễn Phú Trọng Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam” rằng:
 
“… phải kiềm chế để nhất quyết không cho phép xảy ra xung đột…”
 
Những lời đã trích ở trên, đã cho toàn dân Việt thấy rằng: Nhà cầm quyền Hà Nội “tuyên bố  phải kiềm chế để nhất quyết không cho phép xảy ra xung đột”; bởi không được phép “xung đột”, để chờ cho đến “mười năm sau… đến đời con cháu…” Nghĩa là đến lúc đó, thì đất nước Việt Nam đã trở thành một Tân Cương, một Tây Tạng rồi, thì con cháu nào để giành lại được đất nước? Riêng gia đình và con cháu của những người Cộng sản đã và đang cầm quyền, thì vì quá giàu, nên nếu có những biến động lớn xảy ra, thì họ sẽ không khó khăn khi chạy ra ngoại quốc, để sống một đời đế vương với những tài sản, mà từ lâu họ đã tẩu tán ra các quốc gia khác để hưởng thụ, chỉ còn lại người dân Việt sẽ phải chịu kiếp nô lệ như người Tân Cương và Tây Tạng!
 
Một điều khác nữa, như bản tin “(ANTV) - Cục Hải sự Trung Quốc vừa đưa ra thời gian công tác trên... Theo đó, giàn khoan Nam Hải 9 sẽ kết thúc tác nghiệp vào ngày 20/8.”
 
Và chính vì biết Trung cộng sẽ rút giàn khoan vào ngày 20/8/2014, nên trong suốt thời gian qua đảng Cộng sản Hà Nội  chỉ lên tiếng cho có lệ, để chờ cho đến ngày 20/8/2014, khi Trung cộng rút giàn khoan khỏi lãnh hải Việt Nam, thì mọi sự sẽ đâu vào đấy. Thế nhưng, một khi Trung cộng đã “cắm mốc chủ quyền” rồi, thì dù có rút đi, nhưng tất nhiên Trung cộng sẽ quay trở lại bất cứ lúc nào, vì khi đã hạ đặt Giàn khoan HD-981 và các Giàn khoan khác xuống lãnh hải của Việt Nam, giết hại ngư dân Việt,  mà nhà cầm quyền Hà Nội không hề có hành động cụ thể nào để chứng tỏ “bảo vệ chủ quyền”, bảo vệ dân, thì đương nhiên đã “công nhận” như văn bản của “thủ tướng” Phạm Văn Đồng đã viết: “Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công nhận quyết định về chủ quyền của Trung quốc”. Vì vậy, trong những thời gian tới, Việt Nam Cộng sản không làm sao thoát nổi thiên la địa võng của Trung cộng!
 
 
Về việc Hà Nội kiện Trung cộng
 
Nếu nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội kiện Trung cộng ra trước tòa án Quốc tế, thì như phía Trung cộng đã “khuyến cáo nếu Việt Nam đi kiện, thì hãy nhớ phải kèm theo cái công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng”.
 
Nói cho ngắn gọn, có ai dám nghĩ rằng: Toà án Quốc tế sẽ buộc được Trung cộng phải cuốn gói, rời  bỏ các nhà máy, trường học… trên đảo Hoàng Sa cũng như cái gọi là Thành phố Tam Sa… trên đảo Trường Sa, để giao hết lại cho Việt Nam hay không???
 
Riêng người viết bài này, thì lại nghĩ rằng: Nếu Việt Nam Cộng sản kiện Trung cộng ra trước Tòa án Quốc tế, thì trong tương lai, sẽ có một Phán quyết tương tự như cái “Hiệp định Da Beo” của Hiệp định Paris, 1973 về Việt Nam vậy.
 
Nghĩa là, phía nào kiểm soát những vùng đất biển đảo nào, thì cứ giữ y nguyên trạng, hai bên không đụng chạm lẫn nhau. Còn Thái Bình Dương - Biển Đông thì “quốc tế hóa”, để các cường quốc đều được hưởng đặc quyền, đặc lợi như nhau. Cường quốc nào cũng cần Thái Bình Dương – Biển Đông, chứ không cần quyền lợi của Việt Nam, cũng như việc Hoàng Sa - Trường Sa thuộc Tầu cộng hay Việt cộng cũng chẳng khiến cho các cường quốc phải lưu tâm!
 
Và chính vì những lẽ ấy, nên Trung cộng đã và đang gấp rút hạ đặt thêm giàn khoan, và xây dựng thêm những nhà máy, “thành phố Tam Sa”, trường học… trên cả hai quần đảo quần đảo Hoàng Sa -Trường Sa, với mục đích là để “cắm dùi chủ quyền”, và để “chờ đón” cái “Hiệp định Da Beo” đó.
 
 
Tạm kết:


Images intégrées 3
Sắc lệnh số 174-NV ngày 13/7/1961 của
Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà Ngô Đình Diệm

 
 Nếu nhà cầm quyền Hà Nội không đặt Tổ Quốc và Dân tộc lên trên hết ; Không thay đổi thể chế chính trị, thì không thể đối đầu với Trung cộng được, mà chỉ có Việt Nam Cộng Hòa, một Quốc Gia đã từng dựng bia đá chủ quyền trên cả hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa từ năm 1956 với Sắc Lệnh rõ ràng, cũng như những thân xác, những dòng máu thắm của các Chiến Sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã hòa quyện dưới đáy Biển Đông, trong cuộc Hải chiến 1974, khi đã “nhắm thẳng quân thù mà bắn” để bảo vệ Hoàng Sa. Đó là những chứng tích lịch sử đời đời, và sẽ còn thâm khắc, để lớp hậu sinh cần phải ghi nhớ:
 
Tiền nhân của chúng ta đã dày công dựng nước và giữ nước bằng cả núi xương, sông máu, thì hôm nay, toàn dân Việt; đặc biệt là lớp hậu sinh, sẽ không thể thản nhiên mà nhìn đảng Cộng sản Việt Nam mỗi ngày cứ đem dâng - bán từng phần lãnh hải, lãnh thổ của đất nước cho Trung cộng cho đến khi cả dân tộc phải bị diệt vong. Chính vì thế, cho dẫu có phải đánh đổi cả sinh mạng của mình, thì lớp hậu sinh cũng phải lấy máu xương để bảo vệ máu xương, là non sông gấm vóc Việt Nam của Tiền Nhân để lại!
 
Paris, 01/07/2014
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen