Nguyễn Chính Kết
Chuyện “thoát Trung”
là điều mà đảng CSVN cần thiết phải làm, có trách nhiệm phải làm và có
thể làm được để đất nước thoát khỏi hiểm hoạ Bắc thuộc lần thứ năm đang
có nguy cơ rất lớn trở thành hiện thực. Tuy nhiên, cho tới nay, nhà cầm
quyền CSVN chưa hề tỏ một dấu hiệu nào đáng
tin tưởng chứng tỏ thiện chí thật sự muốn “thoát Trung” để cứu nguy đất nước cả.
Hiện
nay, qua việc bỏ tù những người chống Trung Cộng xâm lược như Điếu Cày
Nguyễn Văn Hải, Việt Khang, Bùi Minh Hằng, Phương Uyên, Nguyên Kha,
v.v... và qua việc đàn áp mạnh tay những người biểu tình chống Trung
Cộng xâm lược, ta thấy rõ ràng rằng những người dân yêu nước, muốn bảo
vệ lãnh thổ lãnh hải, chống Trung Cộng xâm lược... đều không chỉ bị
Trung cộng mà ngay cả CSVN coi như kẻ
thù cần phải tiêu diệt.
Hành
động của Trung cộng xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam, bắn giết
ngư dân Việt Nam, đặt nhiều giàn khoan dầu vào vùng đặc quyền kinh tế
của Việt Nam, rõ ràng là hành động xâm lược Việt Nam cách nghiêm trọng,
thế mà CSVN không hề có một hành động nào mạnh mẽ và hữu hiệu ngăn cản
hành động xâm lược đó cả. Chính vì thế, hành động xâm lược của Trung
cộng có điều kiện để càng ngày càng leo thang. Qua thái độ của CSVN đối
với Trung Cộng và đối với người dân yêu
nước, ta có thể đoán ngay được rằng CSVN vẫn sẵn sàng làm công cụ cho
Trung cộng, tiếp tay với Trung cộng trong mưu đồ thôn tính Việt Nam.
Nếu
tình trạng này cứ tiếp diễn, ắt hẳn đất nước Việt sẽ không thoát khỏi
tình trạng bị Trung Cộng thôn tính. Đừng chờ khi Việt Nam đã trở thành
một tỉnh của Trung cộng rồi, chúng ta mới dám xác định những điều vừa
kể.
Ý
thức được nguy cơ ấy, chẳng lẽ dân Việt lại phó thác số phận dân tộc
mình cho đảng CSVN quyết định ra sao cũng được? Chẳng lẽ cả một dân tộc
có lịch sử chống Tàu rất anh hùng lại phó mặc để CSVN dâng đất nước cho
Tàu? Chẳng lẽ chúng ta lại sẵn sàng cúi đầu chấp nhận làm thân phận
người dân thuộc địa của Trung cộng?
Trong
hoàn cảnh này, người dân Việt Nam nếu không tự cứu mình thì chẳng ai có
thể
cứu mình được. Toàn dân chúng ta phải dành lại quyền quyết định số phận
của mình chứ không thể phó thác quyền ấy cho đảng CSVN, vốn đã từng
nhiều lần bán đất bán biển của tổ tiên cho kẻ thù dân tộc. Vì thế, vấn
đề trước mắt của người dân Việt trong và ngoài nước hiện nay không phải
là chuyện “thoát Trung”, mà là “thoát Cộng”.
Nghĩa là phải thoát khỏi ách thống trị của chế độ CSVN, không để cho
CSVN đè đầu cưỡi cổ và toàn quyền định đoạt số phận cho cả dân tộc nữa.
Một khi đã “thoát Cộng” thì việc “thoát Trung” cũng trở nên rất dễ dàng.
Đối với nhà cầm quyền CSVN, “thoát Trung” vốn chỉ là cái ngọn, còn cái gốc của vấn đề này là CSVN có chấp nhận từ bỏ tham vọng muốn “muôn đời trường trị”
trên dân tộc Việt Nam hay không, có sẵn sàng từ bỏ quyết tâm bám lấy
quyền lực để cưỡi cổ đè đầu người dân Việt Nam hay không, có thật sự từ
bỏ ý định làm công cụ cho tham vọng bành trướng của Trung Cộng hay
không. Nếu không, việc “thoát Trung” chỉ là
ảo tưởng!
Tương tự như vậy đối với người dân Việt Nam, “thoát Cộng”
cũng chỉ là cái ngọn, còn cái gốc của vấn đề là người dân Việt có thoát
được nỗi sợ hãi mà chế độ CSVN đã gieo vào lòng mỗi người dân từ nhiều
thập niên qua hay không. Nếu không, việc “thoát Cộng” cũng chỉ là ảo tưởng! Nỗi sợ hãi này đã trở thành “cố hữu”,
đã ngấm vào mạch máu của từng người dân Việt; vì ngay
từ khi cướp được chính quyền năm 1945, CSVN đã áp dụng ngay chính sách
khủng bố để giết hại, bỏ tù, xách nhiễu, đe dọa bất kỳ người dân nào dám
nói hay dám làm điều gì bất lợi cho tham vọng “muôn đời trường trị”
của họ. Vụ Nhân Văn Giai Phẩm là một điển hình. Nỗi sợ hãi đối với sự
khủng bố của CSVN vẫn luôn luôn đè nặng trên tâm thức của rất nhiều
người Việt, kể cả trong nước lẫn hải ngoại, khiến họ không dám làm những
gì mà lương tâm, lòng yêu nước hay sự hợp lý đòi hỏi. Đây là thành công
rất lớn của cộng sản, nhờ vậy mà chế độ CSVN vẫn tồn tại suốt gần 70
năm qua, dù đảng này từ rất lâu đã trở nên bất xứng trong việc lãnh đạo
đất nước, dù đảng này đã làm đất
nước tụt hậu hàng trăm năm so với những nước chung quanh, dù dân chúng
từ lâu rất căm phẫn trước những hành vi vô cùng tàn bạo của đảng này đối
với người dân...
Đừng
nói gì đến nỗi sợ của người dân trong nước là những người đang trực
tiếp sống dưới sự cai trị hà khắc của CSVN, mà ngay cả người Việt ở hải
ngoại, dù sống trong những đất nước tự do, vẫn có rất nhiều người bị nỗi
sợ ấy ám ảnh. Thật vậy, nhiều người ở hải ngoại không dám nói gì đụng
chạm đến chế độ cộng sản dù
điều nói đó là sự thật hay là điều cần thiết phải nói. Hoặc họ không
dám công khai đi biểu tình để lên tiếng thay cho người dân trong nước
đang bị CSVN bức hại cách bất công và bị bịt miệng không nói lên được
nỗi uất ức của mình.
Ở
những đất nước tự do như thế, tại sao họ lại sợ CSVN vốn cách xa có khi
tới nửa vòng trái đất? họ sợ những gì? − Thưa: họ sợ không được toà đại
sứ hay lãnh sự CSVN tại đất nước họ đang sống cấp giấy phép cho họ về
Việt Nam; họ sợ khi về thăm quê hương
sẽ bị công an CSVN mời làm việc, gây phiền nhiễu cho họ, vân vân và vân
vân. Nếu người dân của một đất nước cứ chấp nhận “cúi đầu”, “khom lưng” như vậy, thì dân tộc ấy có bị những chế độ bất lương cưỡi lên đầu lên cổ mình hẳn nhiên không có gì là lạ?!
Nỗi
sợ bị CSVN khủng bố khiến rất nhiều người dân không dám phản đối những
tội ác của các cán bộ CSVN. Ngay cả những vị rao giảng những tôn giáo có
chủ trương chống
ác khuyến thiện, cũng vì sợ mà đành phải chấp nhận cái nguỵ biện này: “Từ
bản chất, tôn giáo nào cũng có sứ mạng chống ác và khuyến thiện; tuy
nhiên chống lại những tội ác do ai làm thì cũng đều tốt, đều nên làm và
phải làm; nhưng chống lại tội ác do CSVN gây nên thì không được phép, vì
chống ác trong trường hợp này là làm chính trị, mà tôn giáo thì không
làm chính trị!” Nhiều vị hùng hồn rao giảng chủ trương “vô úy” hay khuyến khích hành vi “vô úy thí” của Phật, hay cổ võ lời khuyên “Đừng sợ những kẻ chỉ làm hại được thân xác mà không làm hại được linh hồn...!” của Đức
Giêsu [1],
nhưng chính bản thân họ lại rất sợ bị công an CSVN phiền nhiễu, đến độ
không dám nói sự thật, không dám chống bất công, đành chấp nhận nói sai
sự thật, sẵn sàng dung dưỡng bất công!
Nhưng rất may cho dân tộc ta là hiện nay xuất hiện càng ngày
càng đông những người dân vượt thắng sợ hãi, không sợ khủng bố, nhất là
giới trẻ. Họ dám mạnh mẽ lên tiếng tố cáo tội ác của CSVN, kể cả tội của
những lãnh đạo cao cấp nhất chế độ, dù biết rằng sau đó họ có thể bị
CSVN bỏ tù hoặc mưu hại. Trong số đó có nhiều người rất trẻ tuổi và là
phái yếu như Công Nhân, Thanh Nghiên, Thục Vy, Hoàng Vy, Minh Hạnh,
Phương Uyên, v.v... Bí quyết gì khiến họ dám “thoát Sợ”, dám lên tiếng cho sự thật, cho công lý, dám làm những hành động mà lòng yêu nước đòi hỏi?
Bí quyết để “thoát Sợ” chính là sẵn sàng chấp nhận chính những gì mà bản năng khiến mình sợ sẽ xảy ra. Thật vậy,
− Ai sẵn sàng chấp nhận chết sẽ không còn sợ chết nữa.
− Ai sẵn sàng chấp nhận vào tù sẽ không còn sợ tù nữa.
− Ai chấp nhận bị công an liên tục mời “làm việc”, bị công an bắt cóc giữa đường, bị công an hành hung... thì sẽ không còn sợ những thứ ấy nữa.
Hiện
nay, biết bao
người thuộc đủ mọi giới, mọi tầng lớp đã thoát được những nỗi sợ cố hữu
ấy, lẽ nào người khác lại không? Nhất là những người tự hào có bản
lãnh, những người đáng lẽ phải làm gương về điều này!?
Sống
trong một chế độ phi nhân, chủ trương khủng bố như chế độ CSVN, những
ai không chấp nhận bị đau, bị khổ, bị phiền nhiễu, bị bạc đãi, bị tù
đày, thậm chí bị giết... thì luôn luôn phải triền miên sống trong sợ
hãi. Trong đó, có những người rất khổ tâm, bị lương tâm thường xuyên cắn
rứt, vì họ bị sợ hãi khống chế nên đã làm nhiều điều hèn nhát, trái với
những gì lương tri hay lương tâm đòi hỏi.
Nói
chung, do bản năng ham sống sợ khổ, chẳng ai tự nhiên lại chấp nhận cái
chết, chấp nhận đau khổ, chấp nhận tù đày, chấp nhận bị phiền nhiễu
cả... Người ta chỉ chấp nhận những thứ đáng sợ ấy khi người ta muốn đạt
được những giá trị rất lớn, hoặc muốn tránh khỏi những tai họa đáng sợ
hơn gấp bội, chỉ lúc ấy người ta mới sẵn sàng trả giá bằng cách chấp
nhận những điều
đáng sợ kia.
Xin
lấy một minh họa cho dễ hiểu. Chẳng hạn, chẳng ai muốn mất tiền, mất
của, mất nhà mất cửa cách phi lý, thậm chí mất như thế là một nỗi sợ.
Nhiều người đã ngất xỉu khi bị mất một món tiền thật lớn. Nhưng nếu mất
tiền để đạt được một điều gì có giá trị lớn gấp bội thì người ta sẵn
sàng chấp nhận mất. Thậm chí họ còn vui mừng khi đã đạt được cái giá trị
mà mình đã bằng lòng trả giá bằng sự mất mát kia. Người ta cũng sẵn
sàng chấp nhận mất một món tiền rất lớn
để khỏi mất đi một số tiền lớn hơn, hoặc để tránh được một tai hoạ nào
đó.
Tương tự như thế, các
nhà đấu tranh dân chủ trong nước sẵn sàng chấp nhận vào tù, chịu thiếu
thốn, đau đớn, nhục nhã, thậm chí cả cái chết là để đạt được một giá trị
lớn hơn gấp bội, đó là sự tự do và hạnh phúc của cả một dân tộc. Nếu không nhắm cái giá trị cao cả đó, không ai dại gì dấn thân vào con đường nguy hiểm ấy
cả.
Chẳng hạn Kỹ sư Đỗ Nam Hải đã tuyên bố: “Tôi
sẵn sàng bước vào một nhà tù nhỏ để dân tộc này sớm bước ra khỏi nhà tù
lớn. Nhà tù lớn ấy hiện nay mang tên là Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam” [2]. Hay như chị Bùi Thị Minh Hằng đã thét lên trong một cuộc biểu tình: “Chúng tôi nằm xuống để dân tộc này đứng lên; chúng tôi chết để dân tộc này được sống” [3].
Hoặc
có người sẵn sàng chịu đau khổ hay chết đi để các thế hệ con cháu mình
được sống yên vui, thoải mái hơn mình, như một người biểu tình ở Bắc Phi
đã nói: “Tôi sẵn sàng chết để ngày mai con tôi không phải sống như tôi” [4]. Hay để công lý và sự thật được thực hiện, như tinh thần của một câu ví dụ
trong một tự điển Pháp nọ: “Tôi không quan tâm chính quyền làm gì mình. Tôi sẵn sàng vào tù miễn là sự thật được phơi bày” [5]. Hay để bảo vệ nhân quyền như Voltaire: “Tôi có thể không đồng ý những điều anh nói nhưng tôi sẵn sàng chết để bảo vệ quyền anh được nói những điều đó” [6].
Tóm lại, muốn “thoát Trung” thì phải “thoát Cộng”. Muốn “thoát Cộng” thì phải “thoát Sợ”. Muốn “thoát Sợ”
thì phải sẵn sàng chấp nhận những điều tệ hại có thể xảy ra. Muốn chấp
nhận những điều tệ hại có thể xảy ra thì phải ý thức được một giá trị
thật lớn, thật cao cả mà mình cần đạt tới, hay phải ý thức được một hiểm
họa khủng khiếp mà mình phải tránh, xứng đáng để đánh đổi bằng cách
chấp nhận những điều tệ hại kia xảy đến.
Trường
hợp của dân tộc Việt Nam hiện nay, muốn được tự do, muốn thoát khỏi
nguy cơ
bị Trung cộng thôn tính, muốn cho con cháu mình mai hậu không phải làm
thân trâu ngựa cho ngoại bang, người dân phải chấp nhận “tìm cái sống giữa cái chết”. Tương tự như những người vượt biên tìm tự do sau 1975.
Khi
chấp nhận vượt biên tìm tự do, người ta đã phải chấp nhận những bất
trắc mà họ biết có thể xảy đến hoặc chắc chắn phải xảy đến như:
− bỏ nhà bỏ cửa, bỏ người thân ở lại,
− gia đình bị ly tán,
− bị lường gạt mất vàng, mất của (do bị lừa đảo),
− bị công an bắt và bị tù,
− bị chết ngoài biển làm mồi cho cá, hay chết trong rừng làm mồi cho thú dữ,
− bị cướp biển, phụ nữ bị cướp hãm
hiếp,
− phải sống thiếu thốn nhiều năm trong các trại tị nạn,
− v.v...
Những điều bất hạnh đó ai cũng sợ, nhưng những người vượt biên
sẵn sàng chấp nhận tất cả chỉ vì mong đạt được một giá trị lớn hơn, đó
là TỰ DO. Thật vậy, chỉ vì tự do, người ta sẵn sàng trả giá rất đắt, như
tác giả Nam Lộc đã nói lên trong bản nhạc “Xin Đời Một Nụ Cười”:
“Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt
“Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương
“Tự do ôi tự do! Em đổi bằng thân xác.
“Vì hai chữ tự do! Ta mang đời lưu vong.” [7]
“Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương
“Tự do ôi tự do! Em đổi bằng thân xác.
“Vì hai chữ tự do! Ta mang đời lưu vong.” [7]
Người Mỹ có câu nói nổi tiếng: “Freedom is not free” (tạm dịch “Tự do không phải là thứ cho không”). Muốn có tự do thì phải trả giá. Tự do rất xứng đáng được trả giá rất cao vì nó quý giá vô cùng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
đối với cá nhân cũng như đối với cả dân tộc. Nó là thứ quý nhất, không
có gì quý hơn, kể cả mạng sống; vì sống mà không có tự do thì “thà chết sướng hơn!” (nhiều người nói như thế!).
Hiện nay, đa số người dân chưa ý thức được nỗi khổ của mình, của con cháu mình, của cả dân tộc mình khi đất nước bị Bắc thuộc lần nữa.
Nếu họ ý thức được nỗi đau và nỗi nhục vô hạn mà người dân Tây Tạng,
Tân Cương, Nội Mông đang phải chịu kể từ khi đất nước họ trở thành thuộc
địa của Trung cộng, nếu người dân Việt ý thức được Trung cộng đã đối xử
tàn bạo thế nào đối với các học viên Pháp Luân Công vốn cùng một giòng
máu Hán
tộc với họ, thì họ sẽ hiểu được nỗi đau và nỗi nhục của mình lớn thế
nào khi đất nước mình lọt vào tay Trung cộng. Lúc đó, họ mới có cảm nghĩ
và thái độ “không thể ngồi yên” như nhạc sĩ Việt Khang:
“Tôi không thể ngồi yên khi nước Việt Nam đang ngả nghiêng,
Dân tộc tôi sắp phải đắm chìm, một ngàn năm hay triền miên tăm tối!
“Tôi không thể ngồi yên, để đời sau cháu con tôi làm người!
Cội nguồn ở đâu, khi thế giới này đã không còn Việt Nam?”
Dân tộc tôi sắp phải đắm chìm, một ngàn năm hay triền miên tăm tối!
“Tôi không thể ngồi yên, để đời sau cháu con tôi làm người!
Cội nguồn ở đâu, khi thế giới này đã không còn Việt Nam?”
Lúc ấy họ mới thấy tội ác của CSVN “tày trời”
như thế nào khi hiện nay CSVN đang sẵn sàng làm công cụ cho Trung cộng,
đồng lõa, tiếp tay giúp Trung cộng xâm lược và thôn tính Việt Nam.
Do đó, chuyện cần thiết phải làm cho kịp thời hiện nay là phải “thoát Sợ” để có thể “thoát Cộng” hầu có thể “thoát Trung”!
Một trong những khẩu ngôn rất giá trị nói lên bí quyết để “thoát Cộng” là: “Đừng sợ những gì cộng sản
làm, hãy làm những gì cộng sản sợ”. Khẩu ngôn này gồm hai vế “Đừng sợ” và “Hãy làm”. “Đừng sợ” là nội dung chính của cả bài này. Còn “Hãy làm” thì chúng ta cần xác định xem cộng sản sợ gì nhất. Thưa: điều cộng sản sợ nhất hiện nay, chính là sợ người dân không còn sợ khủng bố nữa,
nghĩa là CSVN rất sợ chính sách khủng bố của mình bị vô hiệu hóa, không
còn hữu hiệu hay tác dụng nữa. Cộng sản tồn tại được là nhờ người dân
sợ khủng bố. Khi người dân không còn sợ khủng bố nữa, thì đó là lúc nỗi
sợ hãi sẽ quay ngược trở lại để trở thành nỗi kinh hoàng cho chính kẻ
khủng bố. Và đó là lúc chính thức báo hiệu “hết thời” cho cả một chế độ phi nhân tàn bạo.
Houston, ngày 11-7-2014
Nguyễn Chính Kết
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen