Nguyễn Ngọc Chính
Khi cuộc chiến leo thang khốc liệt, năm 1966 Nghĩa trang Quân đội tại
Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, bắt đầu không còn đủ đất để các tử sĩ VNCH yên nghỉ.
Chính phủ nền Đệ nhị Cộng hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải tính đến việc
thành lập một nghĩa trang mới và địa điểm được lựa chọn nằm dọc theo phía tay
trái của xa lộ Biên Hòa (nay là xa lộ Hà Nội) nếu từ hướng Sài Gòn đi Biên
Hòa.
Kiến trúc sư kiêm điêu khắc gia, Đại úy Nguyễn Thanh Thu, được lệnh
của Tổng thống Thiệu lên đường đi Phi Luật Tân để nghiên cứu mô hình xây dựng
Nghĩa trang Quân đội Hoa Kỳ tại Manila (American Cemetery in Manila), được coi
là một nghĩa trang đẹp nhất Á châu.
Nghĩa trang Quân đội Hoa Kỳ tại Manila
(Hình tác giả chụp tại thủ đô Manila, năm 2003,https://www.flickr.com/photos/nguyen_ngoc_chinh/837204065/in/photolist-2gYTAR-2gYTze)
Năm 2003, tôi đã có dịp đến Phi Luật Tân và viếng Nghĩa trang Hoa Kỳ
tại thủ đô Manilla [1]. Nghĩa trang có tên American Cemetery, đây là nơi
chôn cất thi hài quân nhân Mỹ và đồng minh đã nằm xuống trong cuộc chiến ở Thái
Bình Dương vào thời thế chiến thứ hai.
Nghĩa trang mằn trên một khu đất rộng 615,000 mét vuông, trồng cỏ
xanh rì vây quanh là những hàng cây rợp bóng mát. 17,206 ngôi mộ chiến sĩ được
đánh dấu bằng các thập tự giá và xếp hàng thẳng tắp như một đội quân thầm lặng.
Điểm xuyết cho nghĩa trang là một vài tượng đài kỷ niệm ghi những dòng chữ tưởng
nhớ công ơn những vị anh hùng “vị quốc vong thân”.
Nghĩa trang Quân đội Hoa Kỳ tại Manila
(Hình tác giả chụp tại thủ đô Manila, năm 2003)
Sau chuyến đi tham khảo tại Phi Luật Tân, Đại úy Thu sẽ phải trình đề
án lên Tổng thống Thiệu để giao cho công binh xây dựng một nghĩa trang mới mang
tên Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Ông còn gợi ý phải có một tác phẩm điêu khắc
tại cổng vào nghĩa trang để nói lên sự tri ân của mọi người tại hậu phương trước
những tử sĩ được chôn cất tại đây.
Đại úy Nguyễn Thanh Thu xin 1 tuần để suy nghĩ về dự án và trước khi
ra về anh còn được Tổng thống Thiệu nhắc nhở bằng những lời rất thân tình:
“Anh cần chú ý đến ý nghĩa của nghĩa trang phải xoay quanh “cục nhưn” là bức
tượng… Tôi đặt nhiều hy vọng vào anh…”.
Tất cả mọi chuyện chỉ bắt đầu một cách giản dị như vậy. Tuy nhiên,
đối với nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu đó là thời gian anh trăn trở nhiều nhất
với những ý tưởng của một nghệ sĩ sáng tạo cho một công trình mang tầm vóc quốc
gia nói lên lòng tri ân của mọi người đối với những chiến sĩ đã bỏ mình ngoài
chiến trường.
Trong suốt một tuần lễ, hầu như ngày nào anh cũng có mặt tại nghĩa
trang Hạnh Thông Tây để chứng kiến những cảnh tang tóc, đau thương của vợ con tử
sĩ. Nhà chứa xác đầy nghẹt, những chiếc hòm chưa chôn còn mịt mù nhang khói tại
những khu phải căng lều bạt chờ chôn… trong khi trực thăng vẫn hàng ngày tiếp
tục chở xác về nghĩa trang.
Ngày cuối cùng của một tuần tìm ý tưởng là vào một buổi trưa Thứ Sáu
trên đường từ Nghĩa trang Hạnh Thông Tây anh Thu ghé vào một quán nước gọi ly đá
chanh. Và đây chính là giờ phút “định mệnh” khi anh nhìn thấy một người lính
thuộc binh chủng Nhảy dù ngồi trước những chai bia và hai cái ly…
Anh lính ngồi nói chuyện với cái ly thứ hai trước sự ngạc nhiên của
chủ quán lẫn khách uống nước. Hình như anh lính là người vừa thăm bạn được chôn
cất tại Nghĩa trang Hạnh Thông Tây. Một ly anh cúng bạn và một ly anh uống. Anh
ngồi vừa uống vừa nói chuyện với chiếc ly!
Cảm động trước hình ảnh một người lính khổ sở khi phải mất bạn, anh
Thu cầm ly nước chanh bước qua bàn lảm quen. Anh lính ngước lên nhìn anh Thu với
vẻ khó chịu vì sự riêng tư của mình bị người lạ làm phiền và tiếp tục trở về với
ly bia “cúng” bạn.
Anh Thu cũng bị lúng túng vì thái độ “bất hợp tác” của anh lính nhảy
dù. Mấy cô bán hàng lại cười khúc khích, có lẽ các cô nghĩ nãy giờ có một người
“điên” ngồi uống bia nói chuyện với cái ly và bây giờ lại thêm người “điên” nữa
lân la đến làm quen.
Người lính tiếp tục gục đầu ngồi độc thoại, phớt lờ những lời xã giao
làm quen của anh Thu. Dường như anh tưởng bị quân cảnh hỏi giấy nên lẳng lặng
móc bóp giấy tờ cho anh Thu mà không hề ngước mắt nhìn và tiếp tục
uống!
Anh Thu cầm bóp trở về bàn mình và ghi lại tên anh lính: Võ Văn Hai,
cấp bậc Hạ sĩ, binh chủng Nhảy dù, cả tên tiểu đoàn lẫn KBC (Địa chỉ Khu Bưu
Chính của quân lực VNCH). Khi anh Thu trả lại giấy tờ, Hạ sĩ Võ Văn Hai nhét vào
túi với vẻ bất cần, cũng không thèm ngước mặt nhìn lên.
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu
Khuya Thứ Sáu anh Thu mới bắt đầu vẽ để sáng Thứ Bảy trình Tổng
thống. Từ 8g tối đến 6g sáng anh phác thảo được 7 bản vẽ trong tiếng súng và bom
thỉnh thoảng vọng về Sài Gòn. Những ý nghĩ ở một hậu phương yên bình trong khi
những người lính ngày cũng như đêm xả thân ngoài chiến trường khiến anh Thu dồn
hết tâm trí vào những nét vẽ của anh.
Anh Thu hôm đó chỉ ngủ 2 tiếng thì bị đánh thức bởi tiếng chó sủa,
thì ra theo lời của vợ anh: “Có người đến nhà mời anh đi trình dự án!”.
Họ đến sớm để mời anh đi ăn sáng trước khi gặp Tổng thống Thiệu. Lần trước đây
anh gặp Tổng thống để bàn về dự án tại Bộ Tổng tham mưu nhưng lần trình dự án
lại là tại dinh Gia Long.
Lịch gặp Tổng thống vào lúc 9 giờ sáng nhưng vì Tổng thống còn
đang tiếp khách nên anh Thu trong lúc đi lại trên hành lang dinh Gia Long bỗng
nảy ra câu hỏi “Tại sao lại không vẽ Võ Văn Hai?”. Nghĩ là làm ngay. Anh
tưởng tượng một bố cục dựa trên hình ảnh Hạ sĩ Hai ngồi nhớ bạn tại quán
nước.
Anh trở ngay vào phòng Đại tá Cầm, tùy viên của Tướng Thiệu, chụp một
cây bút nguyên tử, lấy trong giỏ rác một bao thuốc lá và rút mảnh giấy bọc bao
thuốc trở ra hành lang ngồi vẽ lại hình ảnh Hạ sĩ Hai.
Một lần nữa, “định mệnh” lại ra tay: trong 7 bản vẽ mang theo, anh
Thu thấy bản cuối cùng, một “tốc họa” trên bao thuốc lá tại dinh Gia Long, là
bản anh ưng ý nhất. Đến khi vào gặp Tổng thống, anh trải 7 bản vẽ lên sàn nhà
trước bàn làm việc, bản vẽ cuối cùng trên bao thuốc lá anh vẫn còn cầm trên
tay.
Tổng thống Thiệu sau khi đi tới, đi lui ngắm 7 bản vẽ, ông nói:
“Anh là “cha đẻ” của dự án này nên theo ý anh, bức nào làm anh hài lòng
nhất”. Phải nói, anh Thu là người thật thà, chất phác, anh thẳng thắn trình
bày:
“Thưa Tổng thống, nếu Tổng thống cho tôi chọn lại thì bản vẽ mới đây tôi
vừa nghĩ ra và vẽ vội trên bao thuốc lá lại là bản vẽ tôi ưng ý nhất… nhưng tôi
sợ mình quá vô lễ để đưa ra tại đây”.
Tổng thống Thiệu vui vẻ và đồng ý xem “tốc họa” trên bao thuốc lá.
Ông cầm bản phác thảo Hạ sĩ Võ Văn Hai về ngồi trên ghế ngắm nghía, một lúc sau
ông nói: “Anh Thu à, người nghệ sĩ hay lãng mạn lắm mà chiến sĩ của mình thực
tế hơn, họ cần một cái tên cho đề tài, anh cho tôi biết đề tài của bức hình là
gì đây?”.
Anh Thu lần lượt đề nghị các tên: (1) Khóc bạn, (2) Tình đồng đội,
(3) Nhớ nhung, (4) Thương tiếc và (5) Tiếc thương. Cuối cùng Tổng thống chọn tên
“Thương Tiếc” cho bức phác họa Hạ sĩ Võ Văn Hai ngồi nhớ bạn. Tổng thống còn
nhắc nhở phải làm sao nói lên được ý nghĩa vừa thương tiếc bạn bè nằm xuống
nhưng cũng phải thể hiện tinh thần chiến đấu của người lính VNCH lúc nào cũng
vững tay súng.
Bất ngờ, Tổng thống yêu cầu anh vẽ một bản thứ hai lớn hơn, vẽ tại
chỗ, ngay ở dinh Gia Long. Thế là với dụng cụ giấy vẽ, bảng đen và các loại màu
được cung cấp ngay theo yêu cầu, anh Thu bắt đầu… “ra tay” trước mặt Tổng thống
Thiệu và một số sĩ quan thân cận của ông.
Anh Thu có thêm yêu cầu cần một người ngồi làm mẫu… và trong số các
sĩ quan hiện diện, chính Đại tá Cầm “xung phong” làm… người mẫu! Thực ra thì
hình ảnh Đại tá Cầm mặc quân phục chỉnh tề, “ủi hồ láng cóng”, không thích hợp
với hình ảnh người lính thật sự nhưng đó chỉ là một hình ảnh gợi ý để sáng tác
cấp tốc.
Anh Thu còn xin thêm thêm 1 khẩu súng trường cho Đại tá Cầm để trên
đùi, đó là khẩu Garant M1 đang được quân đội sử dụng trên chiến trường… Anh cũng
đề nghị trong lúc anh vẽ, tất cả mọi người miễn đặt câu hỏi, vì nếu như thế anh
sẽ mất sự tập trung trong sáng tác và sẽ thất lễ nếu anh không dừng vẽ để trả
lời.
Khó khăn của anh Thu là phải hoàn thành tác phẩm trong một thời gian
gấp rút, anh tâm sự: “Lúc bấy giờ, không biết có một điều xui khiến vô hình
nào đó mà tôi xuất thần phóng bút vẽ lại Hạ sĩ Hai… Không biết là tôi vẽ hay là
ai nữa!”.
Nguyễn Thanh Thu
Sau khi Tổng thống Thiệu ký tên vào bức “tốc họa”, anh Thu chỉ có 3
tháng để hoàn tất công trình tượng đài trước ngày 1/11/1967, ngày Quốc khánh của
VNCH. Vấn đề trước mắt là đi tìm “người mẫu” Võ Văn Hai trong quán nước ngày
trước tại Gò Vấp. Anh đã tìm đến đơn vị của Hạ sĩ Hai và gặp vị Thiếu tá phụ
trách đơn vị.
Thoạt đầu khi nghe anh Thu trình bày vấn đề, vị Thiếu tá có vẻ băn
khoăn, suy tính… nhưng khi thấy tận mắt bức họa có chữ ký của Tổng thống Thiệu,
ông lại hãnh diện khi có người lính thuộc đơn vị nhảy dù của mình được chọn làm
biểu tượng cho người lính VNCH tại nghĩa trang…
Vị Thiếu tá còn ra lệnh cho tập họp đại đội với súng ống đầy đủ để
anh Thu chọn “người mẫu”, vì theo ông, trong đơn vị có nhiều người cao to tới
1,7 hoặc 1,8 mét, còn Hạ sĩ Hai chỉ cao chừng thước 1,6… Chính ông Thiếu Tá cũng
chọn được 4 người lính lực lưỡng trong hàng đầu còn anh Thu thì chỉ réo tên Võ
Văn Hai ở gần cuối hàng quân.
Anh Thu được giao 5 người lính nhảy dù để làm mẫu cho bức tượng
Thương Tiếc trong vòng 3 tháng. Anh cũng nói riêng với các “người mẫu”, sự thật
anh chỉ cần Hạ sĩ Hai, nhưng tất cả đều được nghỉ phép 3 tháng tại Sài Gòn với
điều kiện chỉ được mặc quần áo dân sự để không bị quân cảnh làm khó
dễ.
Anh Thu bên bản sao bức tượng “Thương Tiếc”
Chính hình ảnh Võ Văn Hai ngồi tiếc thương bạn trong quán nước đã ám
ảnh anh Thu để sáng tạo ra bức tượng “Thuơng Tiếc” ngồi trước cửa Nghĩa trang
Quân đội Biên Hòa. Ngày ngày, anh Hai trong bộ quần áo dân sự đạp xe lên nhà anh
Thu, tại đây anh thay bộ quân phục, với ba lô, súng đạn đầy đủ để ngồi làm
mẫu.
Một hôm, khi bức tượng gần hoàn chỉnh chỉ còn thiếu chi tiết khuôn
mặt, anh Thu đã cố tình để cho người lính ngồi một mình trong phòng, còn anh kín
đáo quan sát qua bông gió trên tường. Đây là dụng ý của nhà điêu khắc muốn để
anh ngồi một mình nhớ đến người bạn đã qua đời.
Anh Thu có thể thấy từng đường nét diễn biến trên khuôn mặt lúc anh
lính ngồi buồn một mình và nhà điêu khắc đã phác họa lại trên giấy khuôn mặt
anh. Phần mình, Hạ sĩ Võ Văn Hai lại sợ đã làm chuyện gì khiến Đại úy Nguyễn
Thanh Thu phiền lòng nên cho anh về sớm mà không biết ông đã bí mật quan sát!
Khuôn mặt người lính “Thương Tiếc” bạn được tái hiện qua
bức tượng trong cuộc phỏng vấn
Khoảng 3 giờ sáng anh Thu thức dậy để bắt đầu giai đoạn hoàn chỉnh
cuối cùng của bức tượng: nét mặt của người lính. Anh dùng đèn cầy để lấy ánh
sáng chiếu vào nhiều góc cạnh, qua đó anh có thể sửa lại nét mặt người lính theo
những gì anh phác họa.
Loại ánh sáng nhân tạo qua ánh đèn cầy có tác dụng điều chỉnh các góc
cạnh của tác phẩm theo hướng người nghệ sĩ di chuyển từ nhiều phía. Anh Thu hoàn
toàn bị cuốn hút vào những cảm xúc trên khuôn mặt người lính. Đó là những giây
phút chỉ mình anh và nhân vật của bức tượng trong ánh sáng mờ ảo của cây đèn
cầy.
Sau một giấc ngủ ngắn, anh tỉnh dậy sáng hôm sau để quan sát và so
sánh công trình của mình đêm qua dưới ánh đèn cầy với ánh sáng ban ngày. Anh
mừng vì khuôn mặt của người lính giữa ánh sáng tự nhiên ban ngày và ánh sáng
nhân tạo từ đèn cầy vẫn hiện lên một nét buồn ray rứt.
Như vậy là điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu có thể hài lòng với công
trình nghệ thuật kéo dài 3 tháng của mình. Và chúng ta được chứng kiến pho tượng
“Thương Tiếc” ngồi trước cổng vào Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa từ năm 1967 cho
đến sau ngày 30/4/1975.
Bức tượng “Thương Tiếc” được đắp lại cho cuộc phỏng
vấn
***
Chuyện bây giờ mới kể về bức tượng “Thương Tiếc” được viết lại theo
nội dung cuộc phỏng vấn của Lê Xuân Trường với nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu
qua một video clip dài 36,57 phút vừa xuất hiện trên Youtube, bạn đọc có thể
theo dõi qua địa chỉ:
Cuộc phỏng vấn của Nguyễn Xuân Trường với điêu khắc gia
Nguyễn Thanh Thu
Trong clip này, ở phần cuối dài hơn 5 phút, có đề cập đến thời gian
đi học tập cải tạo của Đại úy Nguyễn Thanh Thu. Anh tâm sự cuộc đời của mình
dính liền với tác phẩm Thương Tiếc, từ “danh vọng” đến “thê thảm”. Tại trại cải
tạo trong thời gian bị “biệt giam” 22 tháng trong “thùng conex” [2] với lời buộc
tội: “Tướng lãnh, sĩ quan xong giặc rồi là hết, còn anh vẫn lưu lại tư tưởng
phản động qua tác phẩm….”.
Cán bộ trong trại chắc cũng chưa từng thấy bức tượng “Thương Tiếc” mà
chỉ nghe đồn qua người Sài Gòn vì bức tượng đã bị giật sập và nấu thành kim loại
sau năm 1975. Khi ở trong trại được khoảng 8 tháng, có lần “quản giáo” trong
trại đề nghị anh Thu khai chỉ đóng vai phụ giúp trong việc tạc tượng còn tác giả
đã ra nước ngoài!
Anh Thu đã trả lời một cách khẳng khái rằng anh đã “làm” thì anh
“chịu”, tàu chìm thì anh chìm theo, máy bay rớt thì anh rớt theo, tượng chết thì
anh chết theo… chứ không thể nào khác được. Anh Thu đã phải trả giá về sự “ngoan
cố” của mình, nhưng một “phép lạ” đã xảy ra trên đường ra pháp trường sử
bắn…
Nguyễn Thanh Thu diễn tả lại cảnh vì sao anh bị…
điếc
Người xem video clip này dễ dàng nhận thấy giữa người phỏng vấn Lê
Xuân Trường và người được phỏng vấn, anh Nguyễn Thanh Thu, đôi lúc không có sự
“ăn ý” trong đối thoại. Chỉ ở đoạn cuối mới có câu trả lời tại sao anh Thu đã bị
“điếc” trong thời gian đi cải tạo khiến cho những đối thoại trong cuộc phỏng vấn
không được “trơn tru” như bình thường.
Nguyên do tại sao xin bạn đọc theo dõi phần cuối câu chuyện bây giờ
mới kể trên video clip đã dẫn.
Bức tượng Thương Tiếc sau 30/4/1975
***
Chú thích:
[1] Xem thêm bài viết “Phi Luật Tân thời hậu SARS”
tại:
[2] Thùng Conex: loại thùng bằng sắt để chứa hàng hóa trong quân đội
Mỹ ngày xưa, có kích thước khoảng 3 mét mỗi chiều. Ngày nay thường thấy loại
thùng này lớn hơn được chuyên chở trên các xe container.
[3] Xem thêm bài viết “Nghĩa tử là nghĩa tận: Nghĩa trang Quân đội
Biên Hòa” tại:
Thomas D. Tran
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen