Lê Dinh
Ba mươi tháng Tư năm 1975, ngày Việt Cộng chiếm miền Nam: VNCH,
dân chúng ồ ạt bỏ xứ ra đi vì không thể sống chung với VC. Nghĩ rằng mình chẳng
có làm gì, không có một chức quyền gì trong chế độ cũ, không đi chắc cũng chẳng
sao, vì VC cũng là người VN như mình, lẽ nào, lẽ nào… nhưng cuối cùng
rồi tôi cũng phải trốn đi, vì không thể nào sống chung với Việt Cộng
được.
Ba năm và bốn tháng sau đó, ngày 7 tháng 8 năm 1978, một ngày hãi
hùng, trải qua biết bao hiểm nguy, khốn khó, gian khổ, vợ chồng và 3 đứa con nhỏ
của chúng tôi, từ Saigon mới đến được bãi biển Vàm Láng (Gò Công), lên một chiếc
ghe đánh cá nhỏ để rời khỏi VN trong đêm tối. Mà đi đâu? Chỉ biết có đi về hướng
mặt trời mọc là dễ nhất vì đi về hướng Đông có thể đến Phi Luật Tân được. Trải
qua 7 ngày, 6 đêm sóng gió thập tử nhất sinh vì là lúc gió mùa, đã 3 ngày mất
hết thức ăn và nước uống, chúng tôi mới được một chiếc tàu buôn của Canada cứu
vớt và 40 sinh mạng trên một chiếc ghe đánh cá nhỏ 2.5m bề ngang và 11m bề dài
thoát khỏi làm mồi cho cá mập.
Ghe đánh cá 2.5m bề ngang và 11m bề
dài
Tàu buôn của
Canada: Avon Forest
Trên boong tàu
Avon Forest
40 người chụp
hình cùng với Thuyền trưởng tàu Avon Forest
Thuyền trưởng
McDougall, ân nhân cứu mạng
Trước khi đi, tôi nghĩ rằng gia đình tôi, nếu may mắn sống còn, sẽ
đến một nước tự do nào đó, được chính phủ quốc gia đó cấp cho vài mẫu đất xa xôi
để trồng trọt, nuôi heo gà sinh sống. Nơi đó, có lẽ không có bóng một người đồng
hương nào và chỉ sống chung với những người bản xứ mà thôi. Buồn lắm, nhưng thôi
thì như vậy cũng được, làm thân tỵ nạn còn đòi hỏi gì hơn nữa, thoát khỏi nanh
vuốt Cộng sản là may lắm rồi. Với hai bàn tay của những người quyết tâm xây dựng
cuộc sống trong tự do, gia đình năm người chúng tôi có thể sống mà không bị hạch
hỏi, phường kêu, khóm gọi, trình diện lên trình diện xuống, nay họp mai hành,
làm khó làm dễ, như khi còn ở trong nước. Thằng con trai 16 tuổi của tôi – dù
luật CS là 18 tuổi mới là tuổi đi lính – thế mà vẫn được giấy báo trình diện đi
làm “nghĩa vụ quân sự”. Thằng nhỏ phải trốn trong hồ chứa nước trên mái nhà mỗi
khi có phường khóm đến tìm. Rồi muốn cho an toàn hơn, tôi phải đến phường xin
giấy phép đi đường, về Gò Công, lo lót chủ tịch khóm phường, đổi tên thằng nhỏ
từ Lê Duy thành 1 cái tên khác, từ 16 tuổi xuống thành 14 tuổi để tránh tuổi
phải làm "nghĩa vụ quân sự, đánh giặc" ở Cao Miên.
Những năm đầu của cuộc đời mới nơi xứ người, tuy phải làm lại từ
đầu, với hai bàn tay trắng, hai vợ chồng đi làm, 3 đứa con đi học, đời sống mới
thật êm ả, ngày không lo âu, đêm không thao thức. Nhất là khi trời vừa chập tối,
không đau tim khi nghe tiếng chó sủa, không hoảng sợ điếng hồn khi có tiếng ai
gõ cửa bất thình lình. Tuy cuộc sống cực nhọc, nhưng có làm, có ăn, không như
khi còn ở trong nước, có làm mà chẳng có ăn. Dần dần, đời sống được ổn định,
dành dụm được chút tiền, mua một căn nhà giá rẻ, mua chiếc xe cũ để đi làm và để
cuối tuần đi chợ mua thức ăn hoặc đi công việc. Nếu mà cuộc đời cứ mãi êm trôi
như vậy thì còn gì bằng. Nhiều khi nhớ về cố hương, nhưng nghĩ lại non nước mình
đã bị giặc miền Bắc chiếm rồi, thôi thì đành coi nơi miền đất xa lạ, tuyết lạnh
này vĩnh viễn là quê hương thứ hai, sống ly hương và chết cũng ly hương, làm ma
ly hương.
Nhưng rồi cuộc đời tưởng êm đềm trôi qua, nào ngờ kẻ thù (VC)
quyết không buông tha.
Năm 1954, dù chúng được chia phân nửa đất nước Việt Nam, cứ tưởng
đâu rằng chúng (VC) sẽ chăm lo cho đời sống của dân chúng ở bên kia vỹ tuyến 17,
nào ngờ, với dã tâm và lòng tham lam vô bến vô bờ của con người CS, chúng muốn
cướp luôn phân nửa phần đất còn lại và chúng đã thành công vào tháng Tư 1975.
Rồi người dân lại ùn ùn bỏ xứ liều chết ra đi, tìm đất sống nơi chốn xa lạ, với
những con người không cùng máu mũ, không quen biết, không nói cùng chung một thứ
tiếng, Nhưng nào được yên. Chúng lại đưa người của chúng ra hải ngoại, theo bén
gót người tỵ nạn, và với lối dụ dỗ, ngon ngọt cố hữu, chúng phỉnh gạt được những
kẻ ham tiền, háo danh với ý đồ chinh phục nốt 3 triệu dân tỵ nạn Cộng sản đã xa
lánh chúng. Chúng đưa nghị quyết… 36 kiểu của chúng ra, nào "xóa bỏ hận thù, hòa
hợp hòa giải, người hải ngoại là khúc ruột nối dài…" và những kẻ không có lương
tâm lại mắc bẫy, trở thành Việt gian, làm tay sai cho chúng.
Mỗi năm đến ngày 30 tháng Tư, người Việt ly hương tưởng nhớ đến
ngày đau buồn bất tận này, để mà căm thù CS bởi vì chúng cướp lấy mảnh đất trù
phú miền Nam, nhưng chúng chỉ biết vơ vét của cải cho đầy túi tham của chúng
thôi và bỏ mặc dân chúng thiếu ăn thiếu mặc, mất đất, mất nhà, mất tất cả tài
sản, cơ nghiệp. Ngày 30 tháng Tư là ngày Quốc Hận, Hận mất xứ sở, hận quân tham
ô, hận quân bán nước, buôn dân, hận quân vô học nhưng nắm quyền cai trị, ngồi lì
trên sự khổ đau của người dân.
Người Việt tỵ nạn Cộng sản, đến ngày 30 tháng Tư, dù không nói ra,
nhưng muôn người như một, đều coi ngày này là ngày linh thiêng, lặng lẽ để tang
trong lòng và âm thầm chờ một ngày mai tươi sáng, quân Cộng sản gian ác sẽ đền
tội. Phần VC, chúng sợ nhất là lòng hận thù triền miên, cao như núi, sâu như
biển, của người Việt tỵ nạn Cộng sản tại hải ngoại. Chúng không muốn ai nhắc tới
hai chữ “Quốc Hận” nữa vì hai chữ này còn tồn tại thì tội ác của chúng luôn luôn
được tô đậm, người Việt tỵ nạ Cộng sản hải ngoại không thể nào "hòa hợp hòa
giải" với chúng, như chúng mong muốn. Vì vậy, bằng đủ mọi cách, chạy chọt tay
trong tay ngoài, chúng vận động để xóa bỏ 2 chữ “Quốc Hận” và gọi đó là ngày
mang danh từ mỹ miều là “Hành trình tìm tự do”. Tại sao không chọn một
ngày khác? Họ có 364 ngày để chọn lựa mà? Chúng ta chỉ có một
ngày, một ngày duy nhất, ngày đau buồn vì mất nước, ngày căm hờn quân cướp nước,
ngày tủi nhục phải sống ở nước người mà họ cam đành tước đoạt. Có ai lấy ngày
giỗ cha mình để làm ngày đám cưới cho con mình không? Nếu anh làm như vậy, người
ta sẽ bảo anh là đứa con… đại bất hiếu.
Vì hận mất nước, không thể sống chung với bè lũ Việt cộng được,
người dân mới đi tìm tự do chứ khi không tự nhiên mà họ bỏ "đi tìm tự do" làm
chi? Có gốc rồi mới có ngọn chứ. Chặt gốc đi thì ngọn còn gì? Chỉ có Canada là
quốc gia duy nhất có một cái luật kỳ quái, chặt bỏ cái gốc “Quốc hận” trong lòng
người Việt Nam và thay thế bằng cái ngọn “Hành trình tìm tự do”. Và đây chính là
việc mất nước lần thứ hai. Mỗi năm đến ngày này, người Việt tỵ nạn Cộng sản ở
Canada để tang cho đất nước, còn phe “thắng trận”, tìm được tự do, thì tiệc
tùng, ca hát, nhảy múa ăn mừng đã đạt được mục đích. Họ bảo ngày mất nước là
"ngày vinh dự" của họ. Trong khi đó ngày này ở trong nước, VC cũng ăn mừng ca
hát nhảy múa đã cướp được miền Nam.
Oái oăm thay cuộc đời! Cùng một ngày mà người tỵ nạn Cộng sản gọi
đó là ngày mất nước, ngày tang chế, ngày đau buồn, còn một số người thì hí hửng
gọi đó là ngày hạnh phúc, ngày vui vẻ, ngày vinh dự tìm được tự do. Tại sao có
sự tương phản như vậy? Họ ngụy biện rằng "ngày 30 tháng Tư vẫn còn đó, các anh
có muốn khóc lóc, muốn than van, muốn để tang gì đó thì các anh cứ làm chứ có ai
cấm cản các anh đâu?". Nhưng mà họ – những con người không có tâm hồn – họ chỉ
nhìn thấy bề mặt mà không nhìn thấy bề trái của sự việc. Mất ngày 30 tháng Tư
trong tâm tưởng mới là đau lòng. Chúng ta, những người tỵ nạn Cộng sản ở Canada,
trước việc bỏ nước ra đi năm 1975 là mất nước lần thứ nhất và ngày 23-04-15,
ngày người ta nhẫn tâm xỏa bỏ ngày Quốc Hận là mất nước lần thứ hai. Lần trước
là mất một cái gì thấy được, còn lần thứ hai này là mất đi một hình ảnh chúng ta
tôn thờ trong tâm não.
Chúng ta có một ngày bất di bất dịch, bất khả xâm phạm để
tưởng nhớ, để thương tiếc, để nhắc nhở hận thù, thì chúng gian xảo, tráo trở,
lấy một ngày khác đè lên, tước bỏ một tài sản tinh thần của chúng ta. Dần dần,
thế hệ này qua thế hệ khác – khi thế hệ chúng ta không còn nữa – các thế hệ sau
lớn lên, con cháu chúng ta rồi đây chỉ biết có ngày 30 tháng Tư là ngày vui
mừng, ngày vinh dự… tìm được tự do, quên đi hận thù to tát là hận thù mất
nước.
Trời cao không thương người Việt tỵ nạn ở Gia Nã Đại, VC đã dã tâm
cướp nước rồi đồng loại lại nhẫn tâm tước đoạt ngày thiêng liêng của những con
người cùng khốn!
Thư bất tận ngôn, tháng 6 năm 2015
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen