Montag, 8. Juni 2015

Âm mưu của Trung Cộng và Sự chuyển trục của Hoa Kỳ

Muốn bảo vệ Biển Đông nói riêng và đất nước nói chung thì phải hiểu rõ tham vọng và chiến lược xâm lăng của Trung cộng (TC), hiểu rõ lập trường của các thế lực ngoại quốc mà VN có thể nhờ cậy và nhất là sự điều hành bảo vệ đất nước của ĐCSVN. Tìm hiểu ba yếu tố này thì toàn cảnh mối nguy bị xâm lăng mà dân tộc Việt Nam đang phải đối diện sẽ hiện rõ ra, đồng thời lối thoát cũng sẽ dễ thấy hơn.
I.              Âm mưu xâm lược của Trung cộng

1. Tham vọng đường lưỡi bò

Trong vài năm trở lại đây, Biển Đông bỗng trở nên quan trọng vì giàu tài nguyên hải sản, dầu khí và là hải lộ vận chuyển thiết yếu cho các nước trong vùng. Đối với Trung cộng, Biển Đông đặc biệt góp phần vào sự phát triển và còn trở nên không thể thiếu trên con đường đi tới ngôi vị cường quốc thế giới. Vì thế TC đã cả quyết tuyên bố tất cả vùng biển bên trong đường lưỡi bò, bao gồm các hải đảo, là ‘lợi ích cốt lõi’ của họ, với tổng diện tích bao trùm 80% Biển Đông.

Thoạt đầu khi TC trưng ra đường lưỡi bò thì tưởng chừng như chỉ là “tham vọng” và TC hoàn toàn không có khả năng đạt được mục tiêu. Nhưng nếu suy xét kỹ lưỡng thì có thể nhận ra âm mưu độc chiếm Biển Đông ẩn hiện trong mọi lãnh vực địa lý, ngoại giao, quân sự của họ và được tiến hành chậm rãi từng bước. Từ năm 1956 khi TC chiếm đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa) tới nay, họ đã lợi dụng thời cơ từng bước lấn chiếm các hòn đảo ở Biển Đông mà kết quả là đã chiếm hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa và tới nay, đã kiểm soát ¾ khu vực Trường Sa! (theo nguồn tin của Philippines). Ngày nay TC càng tỏ ra ‘quyết đoán’ trong mọi lãnh vực quân sự, kinh tế, ngoại giao để xác định chủ quyền ‘không thể chối cãi’ của họ vùng lưỡi bò. Điều này chứng tỏ họ đang thực hiện kế hoạch bá quyền khu vực: họ muốn là cường quốc duy nhất trong vùng Biển Đông và biển Hoa Đông.
Vấn đề chủ quyền hay sở hữu các đảo nhỏ, bãi đá thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ được phân định rõ ràng trên bản đồ các quốc gia lân cận trên bình diện quốc tế. Có lẽ vì các đảo quá nhỏ, không có nước ngọt, quá xa bờ hay dân cư không thể sinh sống nên không có mấy nước để ý chiếm đóng. Nhưng kể từ khi kinh tế TC và các nước trong vùng phát triển mạnh thì nhu cầu dầu khí trở nên yếu tố sống còn, mà Biển Đông lại có khối dự trữ lớn. Bỗng nhiên các hòn đảo nhỏ xíu ở Biển Đông trở nên quan trọng. Tuy nhiên đối với TC, Biển Đông còn mang 2 ý nghĩa quan trọng hơn:

· Là con đường hàng hải vận chuyển đa số nguyên liệu sản xuất và hàng hóa cho nền kinh tế TC và bàn đạp đầu tiên cần phải chinh phục để trở thành một cường quốc biển.

· Về quân sự, ý nghĩa chiến lược của việc chiếm hữu các hòn đảo ở Biển Đông là để đẩy lực lượng hải quân Mỹ ra khỏi khu vực, vì một khi TC xây dựng hàng loạt các cơ sở quân sự với các dàn hỏa tiễn chống hạm trên nhiều hòn đảo ở Biển Đông, thì hàng không mẫu hạm của Mỹ sẽ không dám mạo hiểm đi vào. Như thế là đã đẩy Mỹ ra khỏi khu vực và hải quân TC sẽ làm chủ tình hình.

Do cần thiết phải chinh phục Biển Đông nên TC đã bất chấp luật lệ quốc tế (UNCLOS-UN Convention on the Law of the Sea), ngang nhiên vẽ ra vùng lưỡi bò bao trùm toàn khu vực và dựa vào sức mạnh để lấn chiếm, hay nói cách khác TC chỉ dùng luật rừng. Đó là lý do tại sao TC luôn luôn tránh né các cuộc thảo luận quốc tế đa phương về Biển Đông để phân chia chủ quyền, thay vào đó họ khăng khăng lập trường đối thoại song phương; viện dẫn sự tranh chấp lãnh thổ là giữa TC với nước nào thì chỉ cần giải quyết riêng rẽ với nước đó. Bằng cách này, TC có thể dùng sức mạnh vượt trội của họ để lấn át đối phương.

Từ nhiều năm qua, ASEAN và Mỹ đã cố gắng lôi kéo TC vào bàn hội nghị đa phương để giải quyết vấn đề Biển Đông nhưng tới nay vẫn chưa có kết quả. Chủ đích của TC là mua thời gian để thực hiện công việc lấn chiếm từng bước, để đến khi, giả sử, nếu bị áp lực quốc tế tới mức bắt buộc phải ngồi vào bàn hội nghị đa phương thì quân đội TC đã có mặt trên hầu hết các hòn đảo, bãi đá ở Hoàng Sa, Trường Sa và hàng chục tàu hải giám TC ngang nhiên đi lại trên khắp vùng Biển Đông như vùng biển của họ, tới lúc này, thì dù có thương thảo cũng đã muộn, cuộc chiến cũng đã chấm dứt với toàn thể Biển Đông nằm gọn trong vòng kiểm soát của TC!

Khi đẩy được tàu chiến của Mỹ ra khỏi khu vực chưa hẳn là công việc đã hoàn tất vì Mỹ còn các mối liên minh quân sự, kinh tế với các nước trong vùng. Để loại bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của Mỹ ra khỏi mọi lãnh vực, nếu đương đầu trực tiếp với Mỹ thì sẽ không phải là lựa chọn khôn ngoan, TC chọn phương pháp gián tiếp là nhắm vào các nước nhỏ lân bang, để dễ đè bẹp hơn. Vì khi đã làm chủ về lãnh hải, kinh tế vùng Biển Đông thì TC sẽ lợi dụng sức mạnh và ảnh hưởng của mình để áp lực những nước nhỏ phải từ bỏ liên minh với Mỹ. Khi Mỹ không thể liên minh với các nước trong khu vực thì coi như là sẽ mất dần ảnh hưởng và bị loại khỏi khu vực. Chiến thuật này cũng khá khả thi vì điển hình Úc hiện đang có giao thương kinh tế lớn lao với TC và do áp lực của TC, Mỹ đã không thể đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Úc được (chỉ được mượn tạm căn cứ quân sự của Úc thôi), cho dù Úc là đồng minh thân thiết nhất của Mỹ ở Á Châu.

2. Chiến lược tiến chiếm Biển Đông của TC

Từ khi kinh tế TC đạt được vị thế thứ nhì thế giới sau Mỹ vào năm 2010, phong cách và lời ăn tiếng nói của lãnh đạo TC đã thay đổi dần sang thế đàn anh nước lớn, răn đe các nước nhỏ trong khu vực và không còn che dấu tham vọng trở thành cường quốc đứng đầu thế giới. Đối với khu vực Đông Nam Á, mưu đồ bá quyền được thực hiện dưới hình thức thực dân kinh tế với sự phụ họa của lực lượng hải quân đóng vai trò hăm dọa. Đầu tư ngoại quốc của TC chú trọng vào vấn đề khai thác tài nguyên thiên nhiên như: ở Miến Điện với các loại quặng mỏ và đập thủy điện, hay Việt Nam với dự án Bauxite do Nguyễn Tấn Dũng phê chuẩn. Cách thức TC thực hiện các công trình khai thác tại ngoại quốc thường là dùng công nhân người Hoa (di dân sang) là chính. Phương cách này nhằm thỏa mãn hai mục tiêu là giải tỏa áp lực nạn nhân mãn trong nước và ‘cấy’ người để gây ảnh hưởng ở nước sở tại cho các nhu cầu về sau. Mặt khác, TC còn tìm cách đạt được những thỏa thuận thương mại có lợi để tiêu thụ hàng hóa thành phẩm từ TC bán sang. Đây là chính sách thực dân với chiếc áo mới nhưng cũng cùng mục đích cũ của chính sách thực dân là khai thác nguyên liệu sản xuất và bán lại thành phẩm. Những bước này là chính sách chung mà ta thấy TC áp dụng đối với tất cả các nước trên thế giới, ngay cả Mỹ! Riêng đối với VN thì, ngoài chuyện bị TC khai thác tài nguyên mọi mặt này, VN còn phải đối đầu với tham vọng chiếm hữu toàn vùng Biển Đông của TC.

Chiếm hữu Biển Đông là một chuyện không phải dễ dàng vì có sự hiện diện của Mỹ. Vì vậy TC đã phải ẩn mình một thời gian dài chuẩn bị để hiện đại hóa quân đội, đặc biệt là hải quân, không quân và thành lập đội tàu tuần duyên hùng hậu cho kế hoạch lấn chiếm Biển Đông. Ngày nay, hải quân TC là đội hải quân mạnh nhất Châu Á và đang trên đường cạnh tranh với Mỹ. Cho dù với quân lực hùng mạnh nhưng giải pháp quân sự là giải pháp nguy hiểm, tốn kém và còn có thể gây hại cho nền kinh tế đang trên đường đi lên. Bằng một cách “giảo hoạt” hơn, chưa có tiền lệ, TC sử dụng lực lượng hải giám bán quân sự. Với phương cách này, TC tránh được cuộc đối đầu trực tiếp với hải quân Mỹ mà vẫn có thể đạt mục tiêu. Bắt nguồn từ chủ trương của Mỹ là chỉ quan tâm vấn đề an ninh hàng hải, miễn là không có xung đột quân sự thì Mỹ sẽ không nhúng tay vào. Hay nói cách khác, TC dùng phương pháp bán dân sự sẽ dễ dàng gạt Mỹ ra khỏi các cuộc tranh chấp biển đảo, như trường hợp bãi cạn Scarborough của Phi Luật Tân vừa qua.
Âm mưu độc chiếm Biển Đông của TC qua chính sách biển bằng đường lối bán quân sự được thực hiện bằng chiến lược mà giới ngoại giao quốc tế thường gọi dưới tựa đề ‘chín con rồng khuấy động Biển Đông’. Chín con rồng là những lực lượng bán dân sự như bộ hải giám, bộ tuần duyên, biên giới, hải quan (kiểm soát tàu bè ra vào cảng), ngư chính hay các cơ phận tuần tiễu bờ biển của các tỉnh ven biển như Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam. Các bộ phận riêng lẻ này tự cho mình (hay có chỉ thị ngầm) quyền bảo vệ chủ quyền biển đảo mà không thông qua bộ ngoại giao trung ương. Mục đích của TC trong ý đồ này là để tránh bị quốc tế lên án về một kế hoạch có tính toán trong tham vọng bá quyền. Mặt khác, việc đối đầu với các nước yếu kém như Việt Nam hay Phi Luật Tân thì không cần đến tàu chiến quân sự mà chỉ với đội tàu hải giám hay lực lượng tuần duyên của một tỉnh là cũng dư sức lấn át.
Chiến lược sử dụng các loại tàu dân sự trong vấn đề tranh chấp còn được lồng với chiến thuật được đặt tên là ‘tằm ăn dâu’ (salami slicing); bằng cách giới hạn tầm mức tranh chấp ở phạm vi nhỏ và lấn chiếm từng miếng nhỏ một, với từng nước một. Cách này sẽ cho phép TC chủ động về địa điểm cũng như thời điểm gây hấn và tầm mức va chạm cũng có thể kiểm soát được để không lớn đến mức phải làm thế giới phải báo động. Chiến lược này chỉ có một khuyết điểm là phải mất thời gian dài mới chiếm trọn Biển Đông.

Thử điểm lại tiến trình xâm chiếm trong quá khứ để hiểu rõ chiến thuật này. Về vấn đề Hoàng Sa, TC đã chiếm Hoàng Sa từ năm 1974 từ VNCH; sau đó tiến hành bắt bớ và xua đuổi tàu ngư dân VN lai vãng gần vùng Hoàng Sa, từ dấu diếm (với sự đồng lõa của CSVN không dám nêu tên mà gọi là “tàu lạ”) tới công khai ra lệnh cấm như hiện nay; tới việc thành lập cái gọi là ‘thành phố Tam Sa’, đặt bản doanh quân sự và xây dựng cơ sở hành chính trên đảo Phú Lâm, và tới ngày nay quần đảo Hoàng Sa đã trở thành trung tâm hành chánh của ‘huyện Tam Sa’ với hàng ngàn quân lính (khoảng 6,000 binh lính) có mặt trên khắp các đảo. Một ví dụ khác với Phi Luật Tân, trong xung đột ở bãi cạn Scarborough năm 2012, TC đã chỉ điều tàu hải giám và tàu cá tới khu vực theo kiểu lấy thịt đè người để xác lập chủ quyền, sau vài tuần lễ căng thẳng giữa hai bên, lực lượng Phi Luật Tân yếu thế không thể ‘đuổi’ tàu hải giám và tàu cá TC ra khỏi khu vực nên đành phải rút lui, trong khi đó thì Mỹ không muốn can thiệp vào vì tầm mức xung đột chỉ ở hạng thấp, cho dù Phi có hiệp ước an ninh với Mỹ. Hiện tại (2014), TC đã thiết lập hai phi trường ở đảo Phú Lâm (Hoàng Sa) và Bãi Cạn (Trường Sa).

Về ngoại giao, TC cho in hình lưỡi bò vào thẻ thông hành, cho đấu thầu 9 lô dầu khí trong thềm lục địa của VN, nộp lên LHQ bản đồ lãnh hải tuyên bố chủ quyền toàn vùng lưỡi bò ở Biển Đông bao gồm các hải đảo, cho phép nhà cầm quyền đảo Hải Nam ‘chặn và lục soát tàu nước ngoài’ vùng Biển Đông.
Về kinh tế, TC còn dùng mãnh lực kinh tế mua chuộc vài nước trong khối ASEAN để tạo mối chia rẽ giữa các nước, ngăn cản sự kết hợp thành khối đoàn kết để đối đầu với họ, như thái độ thân TC của Cam Bốt và Thái Lan hiện nay.

Về quân sự, TC tiến hành các cuộc tập trận dưới nhiều hình thức để đe dọa các nước trong vùng, gia tăng ngân sách quốc phòng, sản xuất các loại tàu chiến và máy bay mới, gia tăng xây dựng hạm đội tàu hải giám, hoàn chỉnh chiến lược chống tiếp cận (anti-access) với mục đích đe dọa hạm đội Mỹ cũng như hải quân các nước lân cận.

TC đã và đang thành công với chiến lược lấn chiếm dưới hình thức bán quân sự này và một điều nguy hiểm hơn nữa là TC muốn biến vùng Biển Đông thành ‘vùng tranh chấp’, có nghĩa là vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của VN biến thành ‘vùng tranh chấp’ với TC! Điển hình trên các báo chí quốc tế và dư luận Mỹ hiện nay cũng đang bắt đầu xem vùng Biển Đông thuộc loại vùng tranh chấp chứ không phải vùng đặc quyền kinh thế của VN hay Phi Luật Tân theo tiêu chuẩn UNCLOS. Vì xem là vùng tranh chấp nên sự đòi hỏi chủ quyền toàn Biển Đông của TC cũng tự nhiên được chấp nhận và TC đi từ chỗ không có gì trở nên có phần chủ quyền phải được giải quyết. Cụ thể là: dư luận quốc tế đang đề nghị giải pháp cho Biển Đông là ‘cùng khai thác’ (joint management) khu vực tranh chấp, dĩ nhiên TC cũng có phần!

3. Tìm cách chia rẽ ASEAN

Chiến lược ‘tằm ăn dâu’ còn kèm theo một chi tiết khác là nguyên tắc ‘song phương’ mà TC luôn nhấn mạnh và cương quyết theo đuổi thay vì đa phương. Nhưng làm thế nào chủ động trong chủ trương song phương? Về tổ chức ASEAN, TC đã lợi dụng sự khác biệt quyền lợi giữa 10 nước thành viên để lôi kéo đồng minh. Trong chuyện Biển Đông, chỉ có 4 nước liên hệ có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông là Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai và Brunei; trong đó hai nước có phần bờ biển dài nhất là Việt Nam và Phi Luật Tân. VN và Phi là hai nước muốn đưa vấn đề tranh chấp Biển Đông ra bàn thảo ở hội nghị ASEAN hàng năm, nhưng TC đã dùng món mồi kinh tế để gây chia rẽ; như đã diễn ra vào năm 2012 ở Nam Vang dưới sự chủ tọa của Cam Bốt. Kết quả là quy tắc ứng xử COC vẫn chưa đạt tới và TC thoát khỏi việc phải đàm phán đa phương (với các nước ASEAN) về chuyện Biển Đông. Trong khi đó ở Biển Đông, TC thực hiện tấn công từng nước một để cô lập hóa sự kháng cự, như khi TC lấn chiếm Scarborough của Phi, chẳng nước nào trong ASEAN lên tiếng bênh vực vì không ai muốn bị rắc rối với TC trong giao thương kinh tế. Trường hợp tương tự cũng sẽ xảy nếu TC xâm lấn biển đảo của VN, sẽ chỉ có một mình VN phải tự phòng thủ. TC đã lợi dụng từng khe hở giữa các nước ASEAN để gây chia rẽ dưới mọi hình thức.

II. Lập trường của ASEAN

Để tạo thế cân bằng với TC khổng lồ bên cạnh, các nước ASEAN đã ý thức được sự cần thiết phải hợp lực để tạo thế đối trọng với TC, nhất là trong vấn đề an ninh Biển Đông. Nhưng do sự khác biệt văn hóa, chính trị giữa các nước nên, tới nay, ASEAN chưa thể là một khối thống nhất như EU (Âu Châu). Các nước ASEAN thường chỉ hợp tác với nhau khi có cùng quyền lợi, nhưng khi khác quyền lợi thì mỗi nước đi mỗi hướng, và đây chính là điểm yếu mà TC nhảy vào để thao túng và gây chia rẽ. Điều này đã chứng minh qua thất bại tại hội nghị ASEAN năm 2012 do Cam Bốt làm chủ tịch khi đã không thể đem vấn đề Biển Đông ra bàn thảo.
Tuy nhiên, trong vấn đề Biển Đông, các hội nghị ASEAN vẫn là diễn đàn duy nhất cho các nước như VN hay Phi để có thể ép buộc TC hành xử theo luật lệ quốc tế, và cuộc giằng co vẫn tiếp diễn. Về phần TC, dĩ nhiên họ chẳng dại gì mà tuân thủ quy luật quốc tế khi họ có thể dùng luật rừng mà không bị cản trở. Sự cố gắng của Phi khi dùng diễn đàn ASEAN để tố cáo sự hung hăng luật rừng của TC ở Biển Đông, cùng với Indonesia vận động thông qua COC là những cố gắng không phải là vô ích, ít ra cũng tố cáo sự xâm lấn và không muốn hợp tác của TC, với hy vọng giành được cảm tình quốc tế góp phần ngăn cản TC tiến xa hơn. Trong vấn đề này, rất tiếc VN vẫn chưa có can đảm làm như Phi Luật Tân mà chỉ phản đối ‘trong im lặng’.

Nói chung, vận động ngoại giao qua tổ chức ASEAN để buộc TC phải đàm phán đa phương vẫn là chuyện phải làm nhưng VN không nên xem là chỗ dựa chính dùng để lấy lại chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa hay bảo vệ vùng biển đặc quyền kinh tế.

III. Quan điểm, lập trường của Mỹ về Biển Đông

Năm 2012 là năm tấp nập các chuyến đi Á Châu, đặc biệt vùng Đông Nam Á, của giới chức cao cấp Mỹ như Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng và ngay cả Tổng thống Mỹ ngay sau khi thắng cử nhiệm 2, đã nói lên sự quyết tâm của chính sách trở lại Châu Á của Mỹ. Tuy nhiên, sự trở lại này đã gây ra nhiều lầm tưởng quá mức về sự can thiệp của Mỹ trong vấn đề tranh chấp Biển Đông. Để hiểu rõ giới hạn của mục tiêu chuyển hướng Châu Á của Mỹ thì cần phải minh định hai điều:

(1) Mỹ trở lại không phải để ‘ngăn chặn’ hay ‘bao vây’ TC,

(2) Mỹ trở lại không phải để làm trọng tài trong tranh chấp Biển Đông hay đi xa hơn là bảo vệ biển đảo cho các quốc gia đồng minh.

Chúng ta có thể thấy năm 2014 là năm Hoa kỳ bắt đầu vận hành mạnh mẽ trong tư thế chuyển trục về Biển Đông và Đông Nam Á sau khi Ngoại trường Hillary Clinton làm chuyến công du sang vùng nầy vào tháng 11, 2011. Trong những tháng gần đây, Ngoại trưởng John Kerry liên tục tuyên bố rất cứng rắn như:

· “Sẽ không bao giờ các mục tiêu chiến lược lâu dài vì lợi ích của Mỹ ở châu Á”.
· “Nhưng Mỹ cương quyết phản đối việc sử dụng vũ lực, gây hấn và đe dọa để khẳng định chủ quyền lãnh thố”.

· Và gần đây nhứt, Ông nói:”Chúng tôi kiên quyết phản đối bất kỳ ý kiến nào cho rằng quyền hàng hải là ưu tiên nước lớn ban cho nước nhỏ” trong một thong điệp gửi cho TC. 

1. Mỹ trở lại Châu Á không phải để ‘bao vây’ TC

Chính sách ‘bao vây’ (containment) TC là chính sách từ thời chiến tranh lạnh cho tới khi Mỹ bắt lại liên lạc với TC năm 1972 để cô lập Liên Xô. Từ đó chính sách ngoại giao của Mỹ đối với TC đã chuyển từ bao vây sang ‘hội nhập’ (engagement), tức là khuyến khích TC hội nhập vào các sinh hoạt của thế giới tự do với hy vọng chuyển hóa suy nghĩ của giới lãnh đạo TC và tạo sự thay đổi dần dần theo chiều hướng dân chủ. Với chủ trương này, Mỹ đã giúp TC canh tân đất nước với những kỹ thuật tân tiến và đầu tư; kết quả là sự tiến bộ vượt bực của TC suốt hơn 30 qua (từ 1979 sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ).

Sau một thời gian dài áp dụng, chủ trương ‘hội nhập’ vẫn không thay đổi được bản chất độc tài của csTC, mà ngược lại còn tạo nên một đối thủ mới cho Mỹ trong vị thế cường quốc thế giới. Sau đó, Mỹ đã phải kiểm tra lại chính sách hội nhập để tìm ra cách thức đương đầu với tình thế mới. Giải pháp ‘bao vây’ không sử dụng lại được vì sự toàn cầu hóa đã ràng buộc chặt chẽ nền kinh tế hai nước với nhau; giải pháp ‘hội nhập’ thì chỉ giúp nuôi dưỡng một đối thủ đáng gờm; còn lại là con đường ở giữa: vừa giao thương buôn bán nhưng cũng phải có cách kiềm giữ sự bành trướng của TC. Chính sách này được đặt tên là ‘congagement’, vừa ‘hội nhập’ vừa ‘bao vây’. Để thực hiện chính sách này trên khía cạnh ‘bao vây’, Mỹ đã chuyển sức mạnh quân sự thiên về khu vực Á Châu (hơn Âu Châu) và tìm cách liên kết với các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương trên bình diện quân sự cũng như kinh tế. Về mặt ‘hội nhập’ thì Mỹ vẫn tiếp tục giao thương kinh tế với TC như thường lệ. Hội nhập trên phương diện quân sự thì khuyến khích sự minh bạch trong các hoạt động quân sự như cùng với TC tập trận hay tạo mối giao tiếp giữa giới lãnh đạo quân sự hai bên để học hỏi kinh nghiệm; mục đích là để giảm thiểu nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh nguyên tử có thể bắt nguồn từ sự hiểu lầm; nếu hai bên hiểu biết tiềm lực của nhau thì sẽ giúp ngăn cản chiến tranh xảy ra.

Ngoài ra, một cuộc chiến quân sự giữa TC và Mỹ là điều cả hai bên đều không muốn xảy ra vì hại nhiều hơn lợi; thực tế cho thấy ngay cả TC cũng không nghĩ họ có thể thắng Mỹ trong một cuộc chiến cục bộ. Do đó trận chiến giữa Mỹ và TC để kiểm soát khu vực Châu Á TBD đa phần sẽ nặng về ngoại giao và kinh tế. Một Châu Á hòa bình sẽ có lợi cho kinh tế Mỹ và chuyện này hoàn toàn không liên hệ tới vấn đề nước nào làm chủ Biển Đông.
Nếu Mỹ bị loại ra và TC trở thành đối tác chủ yếu trong khu vực thì vị thế cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới của Mỹ sẽ bị đe dọa. Đây là tình thế Mỹ không muốn bị rơi vào vì khu vực Châu Á TBD sẽ là khu thương mại lớn nhất thế giới trong tương lai. Muốn đạt được nhiều lợi ích nhất thì Mỹ phải có chân trong vùng Châu Á TBD và đồng thời cũng phải tìm mọi cách để ngăn chặn ảnh hưởng của TC lên toàn vùng hay ít nhất là, nếu TC trở thành cường quốc thứ nhì thế giới thì phải tuân theo luật chơi quốc tế.

2. Mỹ xem Biển Đông là vùng tranh chấp

Đối với Mỹ thì sự xung đột ở Biển Đông chỉ được xem là một cuộc tranh chấp giữa TC và 4 quốc gia tiếp giáp Biển Đông. Quan điểm này thể hiện qua các tài liệu nghiên cứu thế giới về lời đề nghị phương cách giải quyết ‘cùng quản lý’ (joint management), và cho rằng TC cũng có quyền khai thác tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai Á và Brunei (dĩ nhiên sẽ không có chuyện ngược lại như Việt Nam có quyền khai thác vùng Hoàng Sa do TC chiếm giữ). Sự thể hiện này trong các tài liệu của các cơ quan nghiên cứu Mỹ như Nhóm ICG (Nhóm Nghiên cứu Khủng hoảng Thế giới) là một tia sáng hé lộ về lập trường của Mỹ: quan tâm của Mỹ chỉ giới hạn trong vấn đề an toàn hàng hải mà không muốn liên hệ đến chuyện chủ quyền.

Vì thế, Mỹ sẽ không nhảy vào cuộc tranh cãi phân chia lãnh hải hay các hải đảo, nhất là nước gây chuyện lại là nước có giao thương lớn, quan trọng và có khả năng trả thù Mỹ bằng con đường kinh tế như TC.

Mỹ sẽ có lợi nhất khi tránh xa vấn đề tranh chấp Biển Đông, miễn là cuộc tranh chấp không gây ra cản trở giao thông hàng hải. Điều này có nghĩa là nếu không xảy ra chiến tranh quân sự làm cản trở giao thông hàng hải thì Mỹ sẽ đứng bên lề.

Lợi thế này có 2 mặt:

· Một mặt là vẫn giữ được quan hệ kinh tế tốt đẹp với TC,
· Mặt kia là lôi kéo thêm các nước trong vùng ngả vào bàn tay Mỹ để tìm sự che chở trước tham vọng bá quyền khu vực của TC.

Còn đối với TC thì cũng có nhiều lợi:

· Thứ nhất, TC đã loại trừ được một đối thủ duy nhất có khả năng cản đường họ lấn chiếm biển đảo và vùng biển lưỡi bò, miễn là họ hạn chế cuộc tranh chấp trong giới hạn dân sự.

· Thứ hai, không phải tốn kém nhiều tiền cũng như nhân mạng để chiếm được lãnh thổ vì chỉ dùng lực lượng bán quân sự (như lực lượng hải giám); thực ra chỉ với lực lượng hải giám và đội tàu cá ngư dân của họ là đủ sức đối phó với Việt Nam hay Phi Luật Tân vì các tàu hải giám này là tàu quân sự được biến cải; lực lượng tàu chiến hải quân chỉ đứng ngoài làm nhiệm vụ đe dọa.

· Thứ ba, xâm lăng với hình thức dân sự thì dù sao cũng mang vẻ ‘yêu chuộng hòa bình’ hơn và vì thế sẽ giảm bớt sự phản đối của thế giới; nhất là khi họ luôn luôn che đậy hành động xâm lược dưới cái vỏ ‘bảo vệ chủ quyền’ (mà họ tuyên bố Biển Đông thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của họ và VN hay Phi Luật Tân là những kẻ xâm lăng).

3. Các động thái gần đây của Mỹ

Vào đầu tháng 10, 2014, Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF) đưa ra một thông cáo, sau khi căn cứ vào Purchasing Power Parity (PPP), tạm dịch là Sức Mua Tương Đương hay Tỷ Giá Mãi Lực Của Đồng Bạc, là tổng sản lượng (GNP) của Trung Cộng đã qua mặt Hoa Kỳ với 17.670 tỷ so với 17.400 tỷ sau khi so sánh trị giá của 1US$ tiêu thụ ở TC và ở Mỹ. Và tỷ giá mà IMF tính là 1US$ xài ở TC tương đương với 1,6667 US$ xài ở Mỹ. Vậy GNP tương đương của TC sẽ là 17.670 tỷ US$. Thật sự GNP của TC hiện tại (7/2014) là 10.600 US$ mà thôi!

Từ tin tức trên, chúng ta nghĩ gì?

Tại sao IMF lại tung tin và đưa ra con số so sánh không đúng thực tế nầy?
Phải chăng, đây chỉ là một chiêu của tập đoàn tư bản đứng sau một trung tâm quyền lực vô hình nhằm gây ảnh hưởng lên chánh quyền Hoa Kỳ hiện tại. Nêu ra hình ảnh Hoa Kỳ tụt xuống cường quốc hạng hai, phải chăng:
· Họ muốn nhằm gây ra tâm lý hoang mang của đại chúng Mỹ về tình trạng xuống dốc của Đại cường Hoa Kỳ?

· Họ muốn chuẩn bị tư tưởng người Mỹ một khi Hoa Kỳ có động thái chiến tranh với TC ở Biển Đông?

Vì, làm thế nào có thể chứng minh là TC qua mặt Hoa Kỳ về kinh tế, một khi lợi tức đầu người của TC chỉ là 7.600 US$/người so với 54.700 US$/người của Mỹ. Căn cứ vào Sai số Giữa Lãi suất Áp dụng (Marging Between of The Rate of Interest), Hoa Kỳ có hiệu năng là 72% so với 19% của TC. Như vậy ai sẽ giữ tiền của TC? Và đã biết bao lần TC vận động thế giới thứ ba dùng đồng Yuan của TC để làm bản vị trao đổi, vì Tiền bản vị (Standard Money) của TC chỉ là từ 2-4%, trong lúc đó, của HK là 92-94%!

Một yếu tố so sánh thứ hai là Hiệu suất Biên tế Tư bản (Marginal Efficiency of Capital) của Mỹ là 69-79%, trong lúc đó của TC là 16-21%. So sánh yếu tố nầy, chúng ta có thể thấy được hình ảnh là TC cần phải bán bao nhiêu triệu quần áo, giầy dép để mua lại…chỉ một cái máy gia tốc (accelerator) của Mỹ?
Và quan trọng hơn nữa, yếu tố Kinh tế Dự trù (Estimated Economy) và Kinh tế Thực sự (Actual Economy) ước tính TC sẽ còn từ 50 đến 75 năm nữa mới hy vọng đứng ngang hàng với Hoa Kỳ với điều kiện là mức phát triển hàng năm phải giữ liên tục hàng năm trên 10%.

Những con số vô tình trên, thiết nghĩ rõ ràng là dụng ý của Mỹ chỉ nhằm mục đích chuẩn bị tâm lý và tư tưởng người dân để cần khi…can thiệp quân sự vào biển Đông nhằm chận đứng âm mưu bá quyền của Tàu.
Có lẽ cũng chính vì thế mà Tạp chí Eurasiareview ngày 30.10 đăng bài viết của tiến sĩ Ian Ralby, sáng lập viên tổ chức tư vấn an ninh chính trị I.R. Consilium (Mỹ) nhận định rằng Mỹ sẽ sẵn sàng để đi đến một cuộc chiến tranh trên Biển Đông để bảo vệ quyền tự do lưu thông tàu bè và máy bay quân sự một khi xung đột giữa Mỹ và Trung Quốc ở khu vực này lên đến cao điểm.
Thêm nữa, nếu so sánh về việc trao đổi thương mại hai chiều giữa Mỹ và Việt Nam, cũng như giữa Mỹ và TC, sự chênh lệch về cán cân thương mại so với VN và TC, điều nầy ảnh hưởng lên quyết định chuyển trục của Hoa Kỳ rất nhiều.
Ký do là, đối với VN, kể từ khi HK bỏ cấm vận ngày 3/2/1994 dưới thời TT Clinton, sau 20 năm VN xuất cảng qua HK từ 230 triệu Mỹ kim, và hiện nay (2014) là 30 tỷ. Mỹ đầu tư ở VN 11 tỷ. Còn nếu so sánh với cán cân thương mại giữa Mỹ và TC hiện nay, giao thương hai chiều của hai quốc gia nầy đạt đến hàng ngàn tỷ Mỹ kim và có khuynh hướng tăng nhanh. Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng là HK không muốn cho các cuộc tranh chấp ở Biển Đông có thể làm cản ngại tiến trình thương mại song phương nầy bằng cách đối đầu quân sự trực tiếp với TC.

Và hơn nữa là: 1- HK đã ký thác cho Nhật tăng cường quân sự và khích động chủ nghĩa dân tộc của quốc gia nầy để trở thành một đối trọng quân sự với TC; 2- HK đã gợi ý cho Nam Hàn đi đêm với Bắc Hàn để tách rời hai đồng minh quốc tế cs là TC và Bắc Hàn; 3- HK đã ký hợp tác quân sự hổ tương với Philippines nhằm tạo áp lực hạn chế mức hung hản của TC; 4- HK được phép đóng quân ở Úc châu và Tân Tây Lan và số quân dự phòng nầy sẽ là một vòng đai quân sự bao vây TC từ Biển Bắc, cho đến Biển Đông hay Nam Hải cùng với sự hiện diện thường trực của vài hàng không mẫu hạm và các khu trục hạm, hộ tống hạm…

Chính những động thái quân sự trên đây, chắc chắn sẽ làm chùng bước con hổ TC, vốn đang bị xâu xé vì những thanh toán quyền lực trong nội bộ đảng, cũng như các xáo trộn xã hội ngày càng gia tăng vì kinh tế bất ổn. Trong lúc đó, HK và Việt Nam đang “mặc cả” với nhau qua bài toán nhân quyền và hủy bỏ việc cấm bán vũ khí sát thương để đổi lấy sự gia nhập vào Quan hệ Đối tác Xuyên Thài Bình Dương (Trans Pacific Parnership-TPP) qua việc “cho xuất ngoại bắt buộc” nhỏ giọt những nhà tranh đấu dân chủ, tự do cũng như phản đối việc đô hộ và tư thế hèn với giặc, ác với dân của CS BV.
Chính thái độ hèn nhát trước kẻ thù của CS BV thể hiện qua hai câu thơ của Tố Hữu ngày nào “Bên ni biên giới là mình, Bên kia biên giới cũng tình quê hương” càng làm cho sự hung hản của TC ngày càng lấn lướt và dữ dội hơn

Kết luận

Qua các phân tích ở phần trên, chúng ta đã nhận diện rõ âm mưu của TC và tư thế hành động của Hoa Kỳ trong hiện tại và dự tính có thể xảy ra trong một tương lai không xa. Riêng cá nhân người viết có vài suy nghĩ nảy sinh về hai sự kiện nêu trên là:

· Câu chuyện Biển Đông tựu trung chỉ là cuộc tranh chấp để cân bằng quyền lực chánh trị, kinh tế, và quân sự giữa hai đại cường là Hoa Kỳ và Trung Cộng.

· Với tư cách một người con Việt, không cần phải động não và phân tích về sự “xoay trục” của Mỹ, vì hành động đó dù có xảy ra hay không chỉ nhằm mục đích nhắm vào quyền lợi của Mỹ mà thôi!

· Đã đến lúc, người Việt hải ngoại và quốc nội cần đứng trên hai chân của mình, và cùng nhau xóa bỏ cơ chế chuyên chính vô sản của CS Bắc Việt. Làm được như thế, mới hy vọng tạo được sự đồng thuận Diên Hồng để “Đuổi” TC về Tàu chứ không phải để “thoát Trung”!

· Chúng ta thấy và nghĩ gì với…hình ảnh của Joshua Wong, với cánh tay đầy máu và và đôi chân khẳng khiu, bị bốn Cảnh sát Hong Kong xách đi chiều ngày 24 tháng 10, 2014 vừa qua, nhưng vẫn không quên gào thét:”Tương lai Hong Kong thuộc về các bạn. Tôi muốn nói với Lương Chấn Anh và Tập Cận Bình rằng sứ mạng chiến đấu cho bầu cử tự do sẽ không chỉ từ giới trẻ, mà đó là trách nhiệm của tất cả mọi người. Tôi không muốn cuộc đấu tranh cho dân chủ phải truyền lại cho thế hệ về sau. Đây là trách nhiệm của chính thế hệ chúng ta.”

Vậy, Tuổi Trẻ Việt Nam, chiếm 65% tổng dân số toàn quốc muốn nói gì với Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Sinh
 Hùng và 170 Ủy viên Trung ương đảng CS Việt Nam?

Nhóm Chống Tàu Diệt Việt Cộng

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen