Bảo Giang -
Ồ! Chẳng lẽ chỉ có bấy nhiêu người (tôi đã nêu tên) là sống chết vì
cái Cờ Đỏ Phúc Kiến hay sao? Không, hẳn nhiên là không phải chỉ có bấy
nhiêu người sống và chết cho sự gian trá và gây ra tội ác của cái Cờ Đỏ.
Trái lại, chúng ta có con số lớn hơn thế nhiều. Nếu đem cân đo theo lời
thề của họ thì ít nhất hiện nay ở Việt Nam có đến hơn ba triệu đảng
viên và cựu đảng viên CS đã qua kiểm thảo và thề trung thành dưới cái lá
cờ ấy. Theo nguyên tắc, họ được tính vào sổ những người sống chết với
nó, nhưng trong thực tế có thể sẽ khác!
Người bạn vong niên của tôi thêm vào “phải cộng thêm ít nhất là hai
người ở nước ngoài nữa. Người thứ nhất, tác giả “Mây mù thế kỷ” (Bùi
Tín). Người thứ hai, tác giả “Đỉnh cao chói lọi” (Dương thu Hương). Tại
sao? “Cả hai đều là đảng viên cộng sản, đều thề trung thành với lá cờ
Phúc Kiến. Là những người đã từng kinh qua các cuộc học tập kiểm thảo”.
Cuộc kiểm thảo mà tác giả Đèn Củ, Trần Đĩnh đã viết là: “…trên cơ sở
thành khẩn khai báo kia mà tuyên bố là căm thù bố mẹ, tỏ ra đã dứt
khoát lập trường vô sản, đoạn tuyệt với kẻ thù giai cấp. Không đạt yêu
cầu căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ thì bản tổng kiểm thảo bị “phá
sản,” học viên đó phải ngồi học lại cho tới khi nào lập trường vô sản,
lập trường nông dân thắng, anh ta công khai tuyên bố căm thù bố mẹ, đoạn
tuyệt với bố mẹ mình (mới thôi). Tố Hữu làm đúng lời Bác Hồ thôi”.(trang 74-75)
Xin nhớ, sau khi học viên đã “công khai tuyên bố căm thù bố mẹ, đoạn
tuyệt với bố mẹ”, các đoàn đảng viên còn phải tự thể hiện mình theo bản
điều lệ đảng, trong ấy có ghi rõ: “lấy tư tuởng Mao Trạch Đông làm
kim chỉ nam,”và “….Đảng Lao động (cộng sản) Việt Nam nguyện học tập Ðảng
Cộng Sản Trung Quốc, học tập tư tưởng Mao Trạch Ðông, tư tưởng lãnh đạo
nhân dân Trung Quốc (tr. 49)”. Họ học tập và thực hành theo chủ
trương đường lối chỉ đạo của CS như thế, Việt Nam không bị Hán hóa,
không bị mất đất mất biển vào tay Trung cộng mới là chuyện lạ. Bởi lẽ
cái lá Cờ Đỏ kia không phải là của Việt Nam. Hơn thế, họ phải học tập
theo tư tưởng Mao và nhân dân Trung Hoa!
Xin nhắc lại đôi dòng. Trần Đĩnh, đã thóat ly gia đình và vào khu từ
những năm 1949. Sau mấy chục năm đưọc ưu đãi trong lòng đảng, từng được
đi cho du hoc, tập huấn ở Trung cộng và rất gần gũi với HCM. Trần Đĩnh
đã nhận ra được con ngưòi của mình sau khi bỏ đảng. Những dòng chữ của
Trần Đĩnh trong Đèn Cù rất đáng trân trọng, bản thân tác giả, đáng trân
quý vì sự quay về trong lẽ thật. Trần Đĩnh viết: “Mấy chục năm sau,
sống với đất nước đang dần dần nhận diện được kẻ đã đày ải mình, tôi bắt
đầu cảm nhận thấy hạnh phúc. Ít nhất tôi đã nhận ra tội ác và lên án nó
giữa lúc nó đang có bộ mặt huy hoàng nhất, có niềm tin gần như trọn vẹn
của dân. Ít nhất tôi đã đương đầu, không quỳ gối trước nó. Cũng như đã
ngay thẳng nhận mình từng đi theo nó, tội ác.”
Trong khi đó, hai tác giả kia, cũng là những đảng viên theo nghề viết
tuyên truyền láo khoét của cộng sản, là những tài sản vốn dĩ … qúy,
được đãi ngộ hơn công an đứng đường. Nay họ bị khai trừ hay tự ý ly khai
khỏi đảng thì không ai biết rõ. Chỉ thấy cả hai đều sống ở nước ngoài,
chỉ ăn theo, nói leo, tố giác những tội ác của cộng sản mà mọi người đã
viết, đã nói. Phần họ, vẫn làm tên xung kích giữ mặt trận chính yếu của
CS là, hết lòng tô điểm và ca tụng Hồ chí Minh, một kẻ bị coi là tội đồ
của dân tộc, một kẻ đã tạo ra mọi nỗi thống khổ và bất hạnh cho Việt Nam
hôm nay. Đã thế, còn sẵn sàng bẻ cong, đánh lạc hướng dư luận khi có
những mũi nhọn của những tác gỉa khác tấn công trực diện vào lý lịch và
hành động tàn ác của HCM. Người thì cho đó là thứ “Hoa Xuyên Tuyết”cực
hiếm. Kẻ thì bảo là “cái đỉnh chói lọi”, rồi viết như lời thề độc “tôi
không bao giờ từ bỏ đội ngũ Người Cộng Sản” (Tự bạch Về Tiểu Thuyết Vô
Đề-Dương thu Hương) là đội ngũ mà Thủ Tướng Đức, Angela Markel, người
sống gần nửa đời dưới chế độ cộng sản định nghĩa là: “cộng sản là một tập thể gian dối và tạo ra gian dối”! Tuy nhiên, đây không phải là chủ đích của bài viết, tôi sẽ quay lại trong dịp khác.
Trở lại Màu Cờ:
II. Ai và những ai đã chiến đấu cho Cờ Vàng là lịch sử, là
truyền thống, là văn hóa nhân bản, là ý chí Độc Lập của dân tộc Việt
Nam?
Trước hết, cuộc chiến vì nền Độc Lập và sự trường tồn của nòi giống
kéo dài suốt hơn bốn ngàn năm qua là công sức của tiền nhân và của tất
cả mọi người Việt Nam qua mọi thời cùng góp sức tạo thành (trừ ra những
kẻ công khai chối bỏ nó mà thôi). Tuy nhiên, người đầu tiên chúng ta
phải nhắc đến là Hai Bà Trưng. Nhắc đến vì hai bà là những vị đầu tiên
đã dùng sắc Cờ Vàng, làm cờ hiệu, biểu tượng cho một cuộc đấu tranh,
giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của ngoại bang. Từ đó, nó trở thành
biểu tượng trong công cuộc cứu quốc và kiến quốc của con dân Việt Nam.
Nếu tính theo thời gian, việc trị vì của hai bà khá ngắn ngủi, nhưng
công nghiệp thì kéo dài mãi thiên thu. Bao lâu còn người Việt Nam thì
bấy lâu lịch sử còn lưu truyền cuộc khởi nghĩa giành Độc Lập cho quê
hương của hai bà. Bao lâu tiếng Việt còn, bấy lâu tiếng trống Mê Linh
còn rền vang trong trời đất, dòng sông Hát vẫn chẳng lặng khói hương và
người người còn nhắc đến ngọn cờ của dân tộc.
Tại sao tôi gọi đây là Màu Cờ của dân tộc? Trước hết, ngọn cờ này đã
phát xuất từ khát vọng Độc Lập cho tổ quốc và Tự Do cho dân tộc. Nên sau
hai bà, qua các triều đại kế tiếp, việc bảo vệ nền Độc Lập và sự trường
tồn của giống nòi trở thành một truyền thống, một lịch sử và thành nền
văn hóa của Việt Nam. Để từ đó, tiếng kèn loa, tiếng trống vang trong
các cuộc phá Tống, diệt Minh, dẹp Nguyên, đến những lần đuổi Hán, triệt
Thanh. Hay tiếng đạn múa, bom rơi trong công cuộc diệt trừ cộng sản,
giải ách thực dân, ngọn cờ Độc Lập luôn luôn vưon lên trên đỉnh cao,
không áng mây mù nào có thể che khuất được. Cũng từ những cuộc tranh đấu
ấy, lịch sử Việt còn ghi đậm nét hào hùng của những anh hùng dân tộc
như Đức Ngô Quyền, Hưng đạo Vương, Lê Thái Tổ, Quang Trung, Hàm Nghi,
đến những danh tướng làm rạng rỡ giang sơn như Trần bình Trọng, Lý
thường Kiệt, Nguyễn Trãi, Hoàng Diệu, Phan thanh Giản, Phan đình Phùng,
Cao Thắng, Hoàng hoa Thám, Đinh công Tráng… Có thể nói, những cuộc chiến
đấu này trở thành triết lý sống cho nền văn hóa của Việt Nam. Tuy thế,
lịch sử cũng không tránh khỏi những vết nhơ, vẩn đục vì sự xuất hiện của
hàng thần lơ láo bán nước, phản bội dân tộc theo kiểu Lê chiêu Thống,
Trần ích Tắc, Cù Thi, Minh Vương…
Chuyện xưa là thế, đến nay, xem ra dòng lịch sử ấy là một chu kỳ tái
quy rõ nét. Ở miền nam, dưới ngọn Cờ Vàng, Tồng Thống Ngô đình Diệm đã
nổi lên như một nhà lãnh đạo anh minh, liêm chính. Ông đã hết lòng hết
sức phục vụ cho dân cho nước, bảo vệ chủ quyền và sự vẹn toàn của đất
nước đến hơi thở cuối. Ông nói: “Thực ra, chính phủ do tôi lãnh đạo
chỉ có một mục đích là bảo vệ nền độc lập của giang sơn và tăng gia hạnh
phúc của toàn thể dân chúng. Về cuộc chiến… Chúng ta hiện nay đang tiếp
tục cuộc chiến đấu lớn lao để hoàn thiện nền Độc Lập của quốc gia và
bảo đảm tự do của nhân dân chúng ta. Cuộc đời của chúng ta, tự do của
chúng ta, hạnh phúc của chúng ta và cuộc đời tự do, hạnh phúc của con
cháu chúng ta đều phụ thuộc vào cuộc đấu tranh này. Nếu Việt Minh cộng
sản thắng trong cuộc đấu tranh này, quốc gia thân yêu của chúng ta có
thể biến mất và nước chúng ta sẽ chỉ được đề cập đến như là là một tỉnh
phía nam của Trung cộng. Hơn nữa, nhân dân Việt Nam sẽ mãi mãi sống dưới
ách độc tài cộng sản và sẽ bị tước mất tôn giáo, tổ quốc và gia đình.” (TT Diệm, 17-9-1955)
Như thế, ngay từ những năm đầu 1950, ông đã nhìn thấu suốt tâm tư của
những kẻ bán nước ở phía bên kia vĩ tuyến 17. Nên ông đã ngày đêm ra
sức đốc thúc toàn thể quân dân miền nam, dưới ngọn Cờ Vàng, cương quyết
bảo vệ sự vẹn toàn của nền văn hóa và lãnh thổ của tổ quốc. Đó cũng là
lý do chính phủ miền nam đã không ký tên vào bản hiệp định chia đôi đất
nước. Tinh thần của ông như đèn trời đã làm nức lòng người dân đất bắc. Ở
đó, không nhà nào, không người nào mà không chong đèn chờ ngày đoàn
quân trong nam tiến ra giải phóng Thăng Long. Sự chờ đợi này đã biến
hình ảnh Cờ Đỏ phe phẩy trên đất bắc thành một mảnh vải chết, lòng dân
không hướng về nó. Trái lại, căm thù nó, nhất là sau mùa đấu tố. Từ đó,
họ chỉ trông chờ một cuộc dổi thay, ước vọng được dứng dưới ngọn cờ dân
tộc để giải phóng quê hương ra khỏi ách nô lệ CS.
Riêng ở trong nam, dưới ánh Cờ Vàng, sức sống và lòng tự hào về
truyền thống và văn hóa của dân tộc đã triển nở như ánh dương. Nhà nhà,
người người nô nức góp bàn tay vào công cuộc xây dựng đất nước. Ở đó, dù
nền Cộng Hòa còn non trẻ, cuộc sinh hoạt dân chủ chưa hoàn chỉnh, nhưng
Sài Gòn, thủ đô của miền nam, đã trở thành hòn ngọc của Viễn Đông, là
niềm mơ ước của các lân bang. Phần người dân đã có một cuộc sống sung
túc, có một ý thức chính trị văn hóa, sâu sắc. Hơn thế, họ hãnh diện, vì
nơi ấy đã có hàng hàng lớp lớp người chiến binh nối theo công nghiệp
của tiền nhân đi giữ nước. Họ hãnh diện vì ngay đến đứa trẻ còn bế ngửa
trên tay cũng đã sớm ý thức về màu cờ của dân tộc, cũng như hiểu được
cái họa ngàn đời từ phương bắc.
Sự hãnh diện của họ không phải là khoa trương, nhưng đầy dẫn chứng. Ở
đó đã có những vì sao ngời sáng trên bầu trời không bao giờ lịm tắt
mang tên Nguyễn khoa Nam, Lê văn Hưng, Trần văn Hai, Lê đăng Vỹ, Phạm
văn Phú, Hồ ngọc Cẩn, Nguyễn văn Long… Họ là những con dân Việt Nam thà
chết với thành dưới ngọn Cờ Vàng, chứ không để một tấc đất quê mẹ rơi
vào tay cộng sản Nga Tàu. Cuộc chiến tàn, thắng bại của nó chẳng dễ luận
anh hùng. Thua như Trần bình Trọng là cái thắng vạn đời. Thắng như “đại
tướng cầm quần chị em” nhận lệnh tướng tàu Trần Canh giết dân Việt hẳn
là cái nhục vạn kiếp! Cũng thế, “thua” như Ngụy văn Thà và các chiến
hữu, đồng bào của anh, máu nhuộm biển đông hay loang trên đồng cỏ, mà
hồn thênh thang cùng tổ quốc. Ngàn sau không một áng mây mù nào có thể
che khuất được! Bởi vì họ đã hiến thân mình vì sự trường tồn và độc lập
của quê hương!
III . Ai và những ai đã lợi dụng Cờ Đỏ buôn dân bán nước?
Trong khi quân dân miền nam nỗ lực hy sinh để bảo vệ màu cờ Độc Lập
của đất nước, không để di sản của tiền nhân rơi vào tay kẻ thù phương
bắc, thì phía bắc bờ vĩ tuyến 17- nơi từ xưa được coi là thành trì của
đất nước, nơi từng vun đắp thành cái nôi Việt Nam cho con cháu hưởng
nhờ, nơi phát sinh nền văn hóa tự chủ Độc Lập của quê hương từ thời lập
quốc – nay dưới ngọn Cờ Đỏ Phúc Kiến do Hồ Quang đem sang, bỗng có đầy
những kẻ bán nước cầu vinh. Trước hết, tập đoàn CS đem mảnh cờ Tầu về
phỉ báng tiền nhân, rồi thay nhau giày xéo quê hương. Nhân danh Cờ Đỏ,
CS tiêu diệt nghĩa đồng bào và truyền thống dân tộc. Đẩy đồng bào vào
cuộc đấu tố, chém giết, gian dối. Kế đến, CS tiêu diệt đạo hạnh, luân
lý, văn hóa Việt Nam. Khi theo Cờ Đỏ, CS dùng súng đạn Tàu, đánh giết
người dân Việt cho Tàu mở rộng bờ cõi về phương nam. Kết quả, nhờ lá Cờ
Đỏ, cộng sản đã tạo nên được những cái tên làm rợn lòng để người dân
không bao giờ có được giấc ngủ ngon, không có được bát cơm hạnh phúc. Đó
là những cái tên đem đến sự chết, sự kinh hoàng cho dân tộc. Khởi đầu
là Minh (Hồ Quang), Duẫn, Đồng, Chinh, Giáp, Dũng, Thọ… kế đến là những
kẻ đem biên cương, đất đai trong nội địa dâng cho Tàu cộng để giữ lầy
quyền hành như Mười, Linh, Phiêu, Mạnh, Kiệt, Cầm… và nhóm cầm quyền
hiện nay như Trọng, Sang, Hùng, Dũng, Hải, Thanh, Nghị, Rứa…
Tất cả những “oanh liệt, hào hùng” ấy chưa bao giờ có trong lịch sử
hơn bốn ngàn năm qua. Nên khi Việt Nam mất không những vùng đất Nam
Quan, Bản Giốc, Lão Sơn, Tục Lãm, Hoàng Sa, Trường Sa…. không có lấy một
“danh hề tướng” nào chết theo đất mẹ. Trái lại, chỉ thấy những ly rượu
Tàu – Việt cộng cụng nhau, mừng cho mối tình “môi hở răng lạnh” không
bao giờ vơi cạn. Chỉ có những môi hôn như những hàm răng bừa, nặng mùi
“bán nước cầu vinh” của lãnh đạo Tầu – Việt cộng chẳng mùa nào chấm dứt!
Ngoài những bàn tiệc của lãnh đạo ra, người dân chỉ thấy những bức
tranh vân cẩu kéo lên, với trọn hình hài bất hạnh của những người chiến
binh Việt Nam từ 1945-79 vẽ trên đó. Người còn sống thì lê lết theo ca
dao thời đại: “Đầu đường đại tá vá xe. Cuối hè thiếu tá cụt, qùe xin
ăn”. Phần những ngưòi đã về với non sông thì bị đoạ đày như những tội đồ
của phương bắc, nằm dưới những nấm mồ hoang, với nhang tàn, bia đỏ. Bên
cạnh đó là những nghĩa trang liệt sỹ Trung cộng với đài cao, mộ bia
hoành tráng và có các cấp lãnh đạo Việt cộng thay nhau xếp hàng đến
nhang khói, cúng tế đủ bốn mùa! Ôi! Việt Nam tôi dưới màu Cờ Đỏ là thế
đấy. Đủ oanh liệt chưa
Tôi có thể trả lời rằng: Bài ca như tiếng ca nát lòng của muôn thế kỷ
hòa lại dưới bóng Cờ Đỏ “Đầu đường đại tá vá xe, Cuối hè thiếu tá cụt
qùe xin ăn” Là bài ca nói lên trọn vẹn hình ảnh của một bức tranh ảm đạm
và tủi hận cho những người chiến binh Việt Nam. Tủi hận vì xương máu
của họ trong hai cuộc chiến kéo dài từ 1946-1979 đã bị Việt cộng lợi
dụng để đánh đổi lấy việc được làm nô lệ cho Tầu cộng. Người còn sống đã
thế, đến người đã ra đi vì lý tưởng bảo vệ biên cương tổ quốc còn thê
lương đến cùng tận. Hỏi xem, hàng trăm ngàn người, binh lính cũng như
đồng bào trở thành “xương trắng Trường Sơn”. Rồi hàng trăm ngàn ngàn
khác bỏ mình trên các cánh đồng hay máu hòa lòng biển xanh, có bao nhiêu
người được yên nghỉ dưới nấm mồ có bia tên, có nhang đèn cúng tế như
“đại tướng” thờ Tàu? Hay hầu như tất cả đều theo diện nhang tàn, bia đổ?
Rồi có bao nhiêu chiến sỹ Việt Nam đã ra đi vì lý tưởng độc lập tự do
cho dân tộc, nhưng nhờ “tài” của lãnh đạo Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười,
Nông Đức Mạnh, Nguyễn phú Trọng…. sau thời Xương Trắng phơi trên Trường
Sơn, nay chiến chinh tàn, được cải táng về nằm trong những nghĩa trang
được tô son điểm phấn gọi là “nghĩa trang liệt sỹ”, Nhưng hỡi ôi! Hỏi
xem có bao nhiêu phần trăm số tử sỹ có tên trên bia mộ, có xương cốt
thật với ngày tháng hy sinh của họ? Hay đa phần với bia tên của họ, ngày
tháng là giả tạo và hài cốt ở dưới mộ sâu kia lại là núm xương trâu,
xương bò, xương nai, xương voi, xương chó… lấy từ trên rừng hoang, do
những kẻ làm ma tinh (ngoại cảm, đồng bóng) của chế độ, được Cờ Đỏ hỗ
trợ vẽ vời ra, đem về thành xương chiến sỹ, thành xương của người có tên
có tuổi! Vẽ với ra với những mỹ từ để lừa gạt, buôn xương bán cốt súc
vật cho các gia đình tử sỹ để sỉ nhục người đã ra đi, và vơ vét thêm
những đồng tiền trong nước mắt của thân nhân còn sống? Đủ man rợ chưa?
Đã sợ CS chưa? Chúng đã không từ bỏ bất cứ phương cách nào để buôn xương
bán máu người chiến binh Việt Nam!
Tôi rơi nước mắt khi viết đến những dòng này. Tôi khóc vì sinh linh
của người chiến binh, của đồng bào Việt Nam đã bị tập đoàn CSVS lợi
dụng. Khi còn sống, họ bị đưa ra làm bia đỡ đạn cho chúng trong chiêu
bài “độc lập – thống nhất” để mở rộng biên cương cho Tàu. Kết quả cả
nước rơi vào vòng nô lệ cho Tàu và tập đoàn buôn xương bán máu người
Việt kia được chủ nhân Tàu cộng ban cho cái cấp hàm thái thú như Tô Định
để chia nhau quyền lợi. Khi chết, lại bị chúng lợi dụng chuyện cải
táng, lập thành những nghĩa trang liệt sỹ để lừa người sống với những
dãy mộ bia mang tên tuổi người đã hy sinh. Nhưng thực tế, trong mộ chỉ
toàn là xương trâu, xương bò, xương thú vật hay là xương của người khác!
Tôi không muốn viết về chuyện này, nhưng buộc lòng phải viết! Hỡi ơi,
cho đến bao giời dân tôi mới được một giấc bình an. Bình an cho người
còn sống và bình an cho những người đã hy sinh? Cho đến bao giờ mới chấm
dứt cảnh dân tôi bị chúng lừa gạt đây?
Hỏi vậy thôi, chứ ai cũng biết. Bao lâu còn cái Cờ Đỏ phe phẩy ở nơi
đây thì bấy lâu dân tộc Việt Nam còn bị đoa đày bởi những cái chiêu bài
do chúng giăng ra để lừa phỉnh gạt gẫm. Giăng ra để chúng an tâm làm nô
lệ cho Tàu cộng. Bao lâu cái cờ đỏ còn phe phẩy ở đó là bấy lâu đất nước
còn bị lệ thuộc, gia phong bị phá, đạo đức luân lý và nền văn hóa của
dân tộc còn bị bào mòn, triệt hạ, Và bao lâu cái Cờ Đỏ còn hiện diện nơi
đó thì bấy lâu vong linh những ngưòi hy sinh vì sự Tự Do, Độc Lập của
dân tộc còn bị tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh lợi dụng và sỉ nhục.
Ai có thể giải nỗi oan khiên cho những người đã khuất? Theo tôi, chỉ
có ngọn Cờ Vàng mang theo hồn nước là biểu tượng và ý chí Độc Lập Tự
Quyết của dân tộc Việt Nam mới có thể hóa giải được tất cả những nỗi
lòng oan khiên cho những người đã bị Cờ Đỏ lợi dụng mà thôi. Nghỉa là,
khi màu cờ của dân tộc trở về trên quê hương, có hai nhiệm vụ phải làm
trước là: Hàn gắn lại nỗi đau của dân tộc bằng cách xây dựng lại các
nghĩa trang cho các chiến binh Việt Nam, không kể bắc không kể nam. Phải
san bằng và giải thể ngay lập tức tất cả các nghĩa trang mà tập đoàn
cộng sản đề là “ nghĩa trang liệt sỹ Trung quốc” nằm trên phần đất của
Việt Nam. Không làm được hai công tác này, chúng ta sẽ đắc tội với tiền
nhân và những thế hệ mai sau.
IV. Ai và những ai đã lợi dụng cờ vàng để tiếp tay cho Cờ Đỏ bán nước hại dân?
Nếu ở phía bên kia bờ vĩ tuyến 17, Cờ Đỏ được kéo lên ở các trụ sở từ
trung ương cho đến địa phương, tại các cơ sở của quân đội, cũng như
công an là biểu tượng cho tội ác và gian trá để cho các cấp lãnh đạo lợi
dụng quyền lực để buôn xương bán máu đồng loại, vơ vét tài sản của đất
nước, rồi chà đạp văn hóa dân tộc và nhân phẩm của con người; thì tại
miền nam, ở bất cứ nơi nào có ngọn Cờ Vàng được kéo lên thì ở nơi đó có
biểu tượng của luật pháp bảo vệ con người và quyền con người, bảo vệ nền
văn hóa, đạo lý dân tộc và bảo vệ chủ quyền của đất nước. Không có một
nơi nào Cờ Vàng được kéo lên để làm biểu hiệu cho các cấp quyền lãnh đạo
lợi dụng để bóc lột, áp bức và phá hoại cuộc sống của người dân. Trái
lại, dưới ngọn Cờ Vàng tung bay, có nhiều kẻ đã lợi dụng sự tôn trọng tự
do và quyền của con người do luật pháp công bố, đã dị lòng, làm tay sai
cho Cờ Đỏ để phá hoại đời sống yên hàn của người dân.
Thành phần này dĩ nhiên không nhiều, nhưng chúng đã chui, luồn, len
lỏi vào tất cả mọi nơi có thể với chủ đích phá hoại, gây ra tại họa cho
con người và cho đất nước Việt. Trong ngành truyền thông thì có những
Trần xuân Ẩn, ban ngày làm việc cho cơ quan thông tin lành mạnh của nước
tự do lấy tiền, cơm áo, đêm đêm thì đi bán những tin tức nhận được cho
cộng sản lấp ló nơi bìa rừng, ven đô, giết hại đồng bào. Trong ngành
hành chánh thì như Huỳnh văn Trọng, Vũ ngọc Nhạ…. Trong tập thể sinh
viên, công tư chức được hưởng những ưu đãi tạm thi hành quân sự để tiếp
tục học trình thì có Ngô bá Thành, Huỳnh tấn Mẫm, Lê văn Nuôi, Lê hiếu
Đằng… hoặc bọn sát nhân ở Huế như Tường, Phan, Xuân, Trinh.… Tất cả là
cái họa cho nước.
Tệ hơn, có kẻ ngoài việc lạm dụng sự tự do mà Cờ Vàng bảo vệ cho
người công dân, còn lạm dụng cả những đặc quyền mà chính quyền dành cho
các tôn giáo để gây ra những cuộc xáo trộn lớn ở miền nam, ngõ hầu tiếp
tay cho cộng sản cướp chính quyền như Phạm văn Bồng, (Thích trí Quang),
Đỗ xuân Hoàng (Thích thiện Minh)… là những ngưòi đã khuấy động từ miền
Trung vào đến Sài Gòn dưới chiêu bài bảo vệ Phật pháp. Rồi đưa hàng trăm
đoàn đảng viên CS mặc giả áo nhà tu hành ra đón CS vào Sài Gòn vào
chiều ngày 30-4-1975. Kết quả, một người bị Việt cộng giết sau đó, một
người khác thì bị cộng sản quản thúc (?), mấy chục năm qua không hề được
phép xuất hiện trước công chúng, dù chỉ một lần vẫy tay chào. Một vài
kẻ khác, cũng lén lút làm những việc tồi tệ này, nhưng không gây ảnh
hưởng lớn trong sinh hoạt của xã hội cũng như trong tôn giáo là Trường
bá Cần, Phan khắc Từ,… là những linh mục bên phía công giáo. Tóm lại,
chỉ có một số kẻ lợi dụng sự tín nhiệm của Cờ Vàng dành cho người dân để
gây họa cho nước. Không có một cơ quan chức năng nào của Cờ Vàng đứng
ra buôn xương bán máu đồng bào hay bán nước cầu vinh.
V. Một vài trường hợp đặc biệt
Phong trào chống cộng, bảo vệ nền tự chủ Độc Lập của dân tộc, cũng
như các phong trào tranh đấu đòi Dân Chủ, Tự Do, Công Lý và Nhân Quyền
cho Việt Nam càng lúc càng nở rộ trên quê hương Việt Nam. Cho đến nay,
những phong trào này, từ cá nhân cho đến đoàn thể, còn ở trong nước hay
đã ra hải ngoại, chưa một ai công khai tuyên bố đứng dưới ngọn Cờ Vàng
để tranh dấu cho lý tưởng mà họ theo đuổi. Tuy nhiên, có thể nói rằng,
lý tưởng của họ cũng chính là lý tưởng mà ngọn Cờ Vàng của dân tộc có
lịch sử từ thời Hai Bà Trưng luôn nêu cao. Đây cũng chính là lý tưởng mà
người Việt Quốc Gia hằng trung thành theo đuổi. Cả hai, xem ra cũng gặp
nhau trong một khát vọng chung. Quyết bảo vệ nền Độc Lập của giang sơn.
Quyết bảo vệ Tự Do, Nhân Quyền , Công Lý,và đời sống ổn định cho nhân
dân trong một thể chế Dân Chủ đa nguyên. Theo đó, tôi cho rằng, nếu
chúng ta, những người Việt Nam Quốc Gia đã luôn đứng dưới ngọn Cờ Vàng
để tranh đấu cho lý tưởng của dân tộc, cũng chẳng nên đặt vấn đề này ra
với từng cá nhân làm gì. Bởi lẽ, chỉ thêm phúc tạp và không cần thiết.
Thay vào đó là một hướng đi đơn giản hơn. Hãy vì màu cờ của dân tộc, vì
nền Độc Lập và sự trường tồn của đất nước mà sát cánh bên nhau. Sát cánh
bên nhau vì cùng chung một lý tuỏng, một cuộc tranh đấu. Hơn thế, chúng
ta đều biết rõ ràng về nhau là:
- Chắc chắn những cuộc tranh đấu của họ không nhằm bảo vệ Cờ Đỏ, và
càng không bao giờ họ tranh đấu để bảo vệ tập đoàn lợi dụng ngọn cờ Phúc
Kiến đã gây ra tai họa cho nhân dân (nếu có trường hợp nào bị suy luận
sai, xin quý vị tự lên tiếng cho biết để tôi tránh ra trường hợp ngộ
nhận). Trái lại, có thể nói, mục đích chính của những cuộc tranh đấu này
là loại trừ tập đoàn cộng sản ra khỏi đất nước Việt Nam. Cờ Tàu thì trả
về cho Tàu. Cờ của Tổ Quốc phải được dựng lên cao trong phần đất Việt
Nam.
- Chỉ có Cờ Vàng của dân tộc, và những người luôn đứng dưói ngọn cờ
này vì lý tưởng của quê hương, là những người sẵn sàng sát cánh và
chung, chia nỗi niềm ân ưu, gian khổ với họ. Điều này thực tế đã chứng
minh trong những tháng năm qua. Tất cả những người lên tiếng bênh vực và
bảo vệ họ đều là những người đứng dưới ngọn Cờ Vàng của dân tộc. Chẳng
có một kẻ nào cầm cái Cờ Đỏ trong tay đã lên tiếng bảo vệ hay ủng hộ
những cuộc tranh đấu của họ!
- Chúng ta bảo trợ nhau, sát cánh bên nhau không phải vì một mục đích
duy nhất là đạp đổ cộng sản để phục quốc, phục quyền. Nhưng chính là
xây dựng một đất nước có chủ quyền, có Độc Lập trong một thể chế Dân
Chủ. Ở đó, ngừơi dân có quyền dân. Người người được hưởng đầy đủ những
quyền hạn được quy định trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền. Ở
đó, mọi ngưòi dân đều có cơ hội đồng đều để xây dựng đời sống và kiếm
tìm hạnh phúc cho mình trong tinh thần phục vụ tổ quốc.
Có ý thức được như thế, Màu Cờ của Dân Tộc mời trải rộng được ý nghĩa
tất cả là vì hạnh phúc của toàn dân, và tất cả vì nền Độc Lập tự chủ
của giang sơn Việt Nam
Bảo Giang
3-2015
3-2015
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen