Quốc
hội Việt Nam cần ra nghị quyết tái xác nhận chủ quyền biển đảo của Việt
Nam và phủ nhận hiệu lực pháp lý của các văn kiện ngoại giao, các hiệp
ước song phương liên quan đến biển đảo của Việt Nam do chính phủ hay
đảng Cộng sản Việt Nam đã ký kết công khai hay bí mật với chính phủ và
đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng đã không được Quốc hội thông qua, chiếu
theo Hiến pháp Việt Nam và cũng là nguyên tắc chung về công pháp của hầu
hết các quốc gia trên thế giới ngày nay trong quan hệ quốc tế.
Hiến
pháp Việt Nam năm 1992, Điều 84, Khoản 13 qui định về nhiệm vụ và quyền
hạn của Quốc Hội “Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn
hoặc bãi bõ các điều ước quốc tế đã ký kết hoặc tham gia theo đề nghị
của Chủ tịch nước.”
Sau khi Quốc Hội ra nghị quyết với nội dung căn bản như trên, chính phủ Việt Nam (Bộ Ngoại Giao) cũng cần soạn thảo và công bố Sách Trắng về chủ quyền biển đảo của Việt Nam với
những căn cứ lịch sử, pháp lý, hành chánh và sự chiếm dụng thực địa lâu
dài của Việt Nam. Dựa trên cơ sở này, tái xác nhận chủ quyền Việt Nam
đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và tố cáo nhà cầm quyền Trung
Quốc trước công luận quốc tế về các hành động dùng bạo lực xâm chiếm
trái phép các vùng biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Đồng
thời xác định sự chiếm cứ bất hợp pháp này sẽ không thể trở thành vĩnh
viễn và Việt Nam sẽ kiên trì sử dụng mọi phương cách cần thiết, hữu hiệu
trong hiện tại cũng như tương lai để thu hồi chủ quyền các phần biển
đảo của Việt Nam đã bị Trung Quốc xâm chiếm trái phép.
Vì sao Quốc hội Việt Nam cần phải ra một nghị quyết và và chính phủ Việt Nam cần công bố Sách Trắng về chủ quyền biển đảo của Việt Nam với nội dung như trên?
Theo
nhận định của chúng tôi là vì, mặc dầu trước phản ứng quyết liệt của
nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước cũng như phản ứng mạnh mẽ của công
luận quốc tế, Trung Quốc đã phải rút giàn khoan HD-981 và tàu chiến ra
khỏi vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam; và mặc dầu vào cuối
tháng 8 năm 2014 vừa qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng của đảng CSVN đã
cử đặc sứ Lê Hồng Anh qua Trung Quốc cầu hòa, nhưng tất cả chỉ là những
động tác giả bên ngoài, thực chất bên trong vẫn không làm thay đổi được
gì tình hình thực tế.
Trung
Quốc vẫn chưa và sẽ không bao giờ từ bỏ tham vọng bành trướng, lấn
chiếm lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam. Do tương quan lực lượng không
cân sức, Việt Nam đã không ngăn chặn được hành động xâm lăng của Trung
Quốc, để mất phần lớn biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong hiện tại
Việt Nam không đủ thế lực để đòi lại các phần biển đảo đã mất bằng cả
hai phương cách quân sự và pháp lý, ngoại giao.
Thế
nhưng trong tương lai gần xa các thế hệ nhân dân Việt Nam sẽ tìm mọi
cách để đòi lại các phần biển đảo đã bị Trung Quốc chiếm cứ, thông qua
các chính quyền hợp pháp chính đáng của dân, do dân và vì dân. Một trong
những phương cách ưu tiên mà Việt Nam mong muốn trong hiện tại cũng như
tương lai, là giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo một cách hòa
bình thông qua thương lượng, dựa trên luật pháp và tập quán quốc tế.
Vì vậy, Quốc Hội Việt Nam cần phải ra một nghị quyết và chính phủ Việt Nam cần công bố Sách Trắng về chủ quyền biển đảo của Việt Nam với
nội dung như trên, để bảo lưu tố quyền bất khả thời tiêu trước các cơ
quan tài phán quốc tế mai hậu, cho dù Trung Quốc có chiếm cứ bất hợp
pháp bao lâu các phần biển đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Như
mọi người đã biết, thực tế Trung Quốc trong quá khứ đã dùng bạo lực
quân sự xâm chiếm phần lớn các đảo thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa của Việt Nam mà trước đó các chính quyền Việt Nam kế tục quyền quản
trị và bảo vệ đất nước, đã thể hiện chủ quyền bằng sự chiếm giữ thực địa
lâu dài và sự xác lập bằng những chứng cứ lịch sử, pháp lý, hành chánh
không thể tranh cãi.
Thế
nhưng để biện minh cho hành động xâm lăng trắng trợn này,Trung Quốc đã
đưa ra những căn cứ ngang ngược (Biển lịch sử, Bản đồ lưỡi bò 9 đoạn, 10
khúc v.v.) để coi hầu hết Biển Đông đều thuộc chủ quyền của mình. Đồng
thời Bắc Kinh cũng chính thức công bố những văn kiện ngoại giao (như
công hàm năm 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, văn thư năm 1956 của
Bộ trưởng Ngoại Giao Ung Văn Khiêm v.v.); hay bán chính thức công bố
những bằng chứng về sự cam kết bí mật nhượng quyền biển đảo của Việt Nam
để đổi lấy sự viện trợ có điều kiện trong thời kỳ chiến tranh “giải
phóng Miền Nam”, để cho rằng sự chiếm giữ các hải dảo của Việt Nam cũng
chỉ là để thi hành mật ước để trừ nợ v.v.
Tất
nhiên, nhân dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước, những người thừa kế
chính danh và là sở hữu chủ thực sự đất nước đã và sẽ không bao giờ
chấp nhận thực tế trên.
Trong
hiện tại, cả hai phương cách đòi lại các vùng biển đảo thuộc hai quần
đào Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam đều bất khả thi. Đó là phương
cách quân sự, phương cách ngoại giao và pháp lý.
Phương cách quân sự, là bất khả thi vì tương quan lực lượng giữa Việt Nam và Trung Quốc không cân sức.
Vì
vậy điều tốt nhất vẫn là Việt Nam mong muốn giải quyết tranh chấp một
cách hòa bình thông qua thương lượng, căn cứ theo luật pháp quốc tế (như
Luật Biển 1982 của LHQ), với sự hậu thuẫn của quốc tế.
Thế
nhưng thực tế cũng đã cho thấy phương cách ngoại giao theo kiều cầu
hòa, năn nỉ, nhượng bộ với kẻ xâm lăng cũng chỉ được kẻ xâm lăng thường
tình tạm ngưng chứ vẫn không từ bỏ ý đồ xâm lăng biển đảo của Việt Nam.
Trung Quốc vẫn âm thầm chuẩn bị cho những bước xâm lăng mới khi có điều
kiện và thời cơ thuận lợi.
Còn
phương cách pháp lý thì sao? Đó là việc đưa vụ Trung Quốc xâm chiếm các
hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam ra trước cơ quan tài phán
hay trọng tài quốc tế đề đòi lại chủ quyền. Dẫu biết rằng hiệu quả thực
tế khó đạt, khi kẻ xâm lăng vẫn ỷ thế mạnh luôn cự tuyệt không tham gia
phương cách pháp lý này.
Nói
tóm lại, thực tế biện pháp quân sự bất khả thi, biện pháp pháp lý khả
thi không hiệu quả, ai cũng thấy tất cả là vì thế lực yếu kém của Việt
Nam so với Trung Quốc cộng với thế yếu về ngoại giao của Việt Nam đã
không tạo được sức hậu thuẫn quốc tế đòi buộc được Trung Quốc trả lại
phần biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã cưỡng chiếm của Việt Nam. Thế
nhưng, nhân dân Việt nam chắc chắn không chấp nhận thực tế để mất một
phần biển đảo của Tổ quốc vào tay Trung Quốc. Nếu hiện tại do thế lực
yếu kém không đòi lại được, thì các thế hệ nhân dân Việt Nam tương lai
phải bằng mọi cách và mọi giá đòi lại, khi có thế lực mạnh và thời cơ
thuận lợi.
Phương
cách pháp lý để trong tương lai đòi lại chủ quyền biển đảo bị Trung
Quốc cưỡng chiếm chính là lý do Quốc Hội đương nhiệm cần ra Nghị quyết
tái xác nhận chủ quyền biển đảo của Việt Nam và phủ nhận hiệu lực của
các văn kiện ngoại giao, các hiệp ước song phương liên quan đến biển đảo
của Việt Nam do chính phủ hay đảng Cộng Sản Việt Nam đã ký kết công
khai hay bí mật với chính phủ và đảng Cộng sản Trung Quốc v.v. Tất cả
chỉ là để bảo lưu tố quyền bất khả thời tiêu trước cơ quan tài phán quốc
tế sau này.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen