Đà
Nẵng là một thành phố mà ông Nguyễn Bá Thanh, cựu chủ tịch Đà Nẵng từng tuyên
bố là thành phố không có người ăn xin, không có trộm cắp, không có xì ke ma túy
và không có người nghèo… Thế nhưng, không có quan điểm nào đưa ra nhằm khẳng
định Đà Nẵng không bị Trung Quốc xâm thực. Chính vì thế, ngay trên hai con
đường có tên Hoàng Sa và Trường Sa chạy dọc theo bờ biển Đà Nẵng,các biệt khu
của người Tàu cùng với hàng trăm quán sá mang biển hiệu Tàu mọc lên dày đặc.
Đâu rồi Đà Nẵng xưa?
Đó
là chưa muốn nói rằng hai con đường với bãi cát vàng trải dài, rừng dừa xanh
miên man theo gió biển đã hoàn toàn không còn mang dáng dấp nguyên sơ của nó
bởi mùi hôi thối nồng nặc của cống rãnh cộng với mùi thức ăn Tàu vốn chặt to
kho mặn bốc ra từ các nhà hàng Tàu đã khiến cho bất kì người Việt nào đi qua
hai con đường này cũng phải bụm mũi và ngỡ ngàng không biết mình đang đi lạc
vào khu phố ổ chuột nào đó ở nước Trung Quốc xa xôi.
Một người dân Đà nẵng bức xúc nói: “Chuyện cũ thời xưa, tối tối ra đường, nó đi đầy đường. Tất cả các quán ven ven đều có bảng hiệu Tàu hết rồi mà, thực đơn cũng chữ Tàu hết mà!”
Vào vai những du khách xứ Bắc ghé thăm xứ Quảng, chúng tôi dạo một vòng trên
đường Hoàng Sa, con đường mà theo một người dân sống lâu năm ở đây nói rằng ông
Nguyễn Bá Thanh thời còn làm chủ tịch thành phố đã dành riêng cho việc tiếp đón
và lưu trú của khách cấp nhà nước Trung Quốc nhằm khẳng định Hoàng Sa thuộc chủ
quyền Việt Nam, có riêng tên đường và có riêng đơn vị hành chính hẳn hoi.
Chuyện này hư thực ra sao chưa rõ.
Thế nhưng chưa đầy một năm sau khi ông Nguyễn Bá Thanh rời chức vị chủ tịch thành phố Đà Nẵng để ra Hà Nội nhậm chức Trưởng Ban Nội Chính Trung Ương thì mọi việc đã hoàn toàn thay đổi, con đường này trở thành biệt khu của người Tàu, mọi hoạt động ở đây đều mang dáng dấp của một thành phố Trung Hoa thu nhỏ.
Một người dân khác, tên Oanh, sống ở Đà nẵng lâu năm, chia sẻ với chúng tôi
thêm về người Tàu ở thành phố này, bà Oanh cho biết, những năm trước 1980,
thành phố Đà Nẵng vốn có rất nhiều người Tàu sống ở đây, họ là hậu duệ của
những vị tướng Tàu “phản Thanh phục Minh”, xuôi thuyền sang Thuận Hóa, tức Huế
bây giờ để xin triều đình nhà Nguyễn cho họ lưu trú, tránh nạn diệt vong trên
quê hương của họ. Sống lâu năm, họ tổ chức thành hội, đoàn, có tổ chức Minh
Hương hẳn hoi. Thế nhưng, chiến tranh Việt – Trung năm 1979 đã khiến họ đồng
loạt quay về Trung Hoa theo lời hiệu triệu của chính phủ Trung Hoa thời bấy giờ.
Thả con tép câu con tôm
Một
người dân Đà Nẵng khác tên Dũng, chia sẻ với chúng tôi rằng ông thấy người Tàu
quá nguy hiểm, họ đã dễ dàng qua mặt nhà cầm quyền cũng như qua mặt nhân dân ở
đây. Ông này nói thêm là thực ra, người Tàu trở lại Đà Nẵng không phải mới mẽ
gì, họ sang đây đã ngót nghét mười năm trên danh nghĩa đi đầu tư kinh
doanh, và hệ quả là những mảnh đất vàng, những điểm trọng yếu dọc bờ biến Đà
Nẵng nhanh chóng trở thành khu xây dựng bí mật của họ, có hẳn tên mới China
Beach. Không có người Việt Nam
nào được đến gần khu vực xây dựng của họ.
Theo
ông Dũng phân tích, để có được những diện tích trọng yếu này, chắc chắn họ
đã lót tay cho các quan chức không phải ít. Vì nhiều người dân Đà Nẵng
mong mỏi được mua ở khu vực này nhưng không bao giờ có đủ cơ hội để mua. Nhưng
người Trung Quốc đã khéo bỏ tiền ra để lấy trọn một khu vực đẹp nhất, trọng yếu
nhất của Đà Nẵng để biến thành biệt khu của mình.
Khách
sạn thuộc một doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam tại Đà Nẵng.
Và việc mua được những diện tích đất vàng ở Đà Nẵng cũng nhanh chóng kéo theo
hệ quả là người dân ở khu vực này bị Tàu hóa vì động cơ kiếm tiền, không ít các
cô gái ở đây sẵn sàng làm phục vụ ở các bar, nhà hàng của người Tàu vì theo họ,
các ông chủ người Tàu trả tiền rất mát tay và xài rất sang. Hơn nữa, nếu không
chọn làm việc cho các ông chủ người Tàu vốn sống gần nhà mình, các cô gái này
phải đi làm việc trong khu công nghiệp cách nơi họ ở quá xa và đồng lương cũng
còm cỏi.
Thuyền, biệt danh là “Thuyền Ba đờ ghe”, từng làm việc lâu năm với người Tàu
trên đường Hoàng Sa, cho chúng tôi biết: “Họ qua mình họ ở thì đầu tiên
cũng thiện cảm với mình. Nhưng khi mình đã làm việc cho họ rồi thì mình cũng
không khác chi người ở cho họ thôi. Cái cách của họ với mình không thiện cảm
lắm đâu. Không giống như người mình với người mình, có nghĩa là mình làm lấy
lương nhưng người ta quý trọng mình. Còn họ mình làm được thì làm, không làm
được thì họ nói khó chịu lắm! Không dễ đâu! Riêng ở Đà Nẵng đây thì nhiều lắm!”
Hiện tại, Thuyền không còn làm việc với người Tàu ở đây nữa, và cô cũng ngậm
ngùi nhận ra rằng người chủ Trung Quốc chưa bao giờ đối xử tốt với nhân viên
Việt Nam cả, một đồng xu của họ bỏ ra, bao giờ cũng ngầm chứa một phép toán bên
trong mà ở đó, nếu là con gái, phải cộng trừ nhân chia cho ra đáp số bằng xác
thịt, nhục dục và tiết hạnh. Còn nếu là con trai, cái giá phải trả là những
đường dây ma túy, xã hội đen, làm kẻ bưng bô cho ông chủ, phải trả giá bằng sự
vong nô tuyệt đối.
Điều
này cho thấy các ông chủ Trung Quốc bao giờ cũng biết sử dụng đồng tiền và tùy
từng tình huống mà kinh doanh nó, chiêu thức thả con tép để lấy con tôm của họ
luôn đắc địa, luôn mang về cho họ phần thắng lợi. Và trên một mảnh đất,một quê
hương mà kẻ ăn không hết, người làm không ra, thì những “kẻ ăn không hết” sẽ dễ
dàng trở thành những tên Việt gian để đưa kẻ ngoại bang vào làm chủ, còn những
“người làm không ra” sẽ rất dễ sa ngã vào những đồng tiền mị dân của kẻ thực
dân mới với vỏ bọc nhà đầu tư, ông chủ tốt bụng.
Tạm biệt thành phố Đà Nẵng, chúng tôi ra thẳng sân bay và mua vé quay trở về
miền Bắc, một cảm giác buồn xâm chiếm đến nghẹt thở, một nỗi bất an và trĩu
nặng khi nghĩ đến chuyện trước đây, Bình Dương, Hà Tĩnh đã dày đặc người
Tàu. Không ngờ, chưa bao lâu sau đó, Đà Nẵng cũng dày đặc người Tàu, rồi đây,
không biết sẽ đến thành phố nào trở thành phố Tàu trên đất nước Việt Nam nữa
đây?
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen