THUONG PHE BINH VNCH https://www.youtube.com/watch?v=zwli1WK7PrI
Nguyễn Đăng Quang
Cách đây
24 năm, ngày 3 và 4/9/1990, tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Trung
Quốc) đã diễn ra cuộc họp thượng đỉnh giữa lãnh đạo Đảng Cộng sản và Nhà
nước hai nước Trung Quốc và Việt Nam. Tham dự cuộc gặp, phía TQ,
dẫn đầu là Giang Trạch Dân – TBT Đảng CSTQ, và Lý Bằng – Thủ tướng Quốc
vụ viện nước CHND Trung Hoa. Dẫn đầu đoàn VN là Nguyễn Văn Linh –
TBT Đảng CSVN và Đỗ Mười, lúc đó là
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tức Thủ tướng Chính phủ) nước CHXHCN Việt
Nam. Thành viên thứ ba của đoàn VN là Phạm Văn Đồng – Cố vấn Ban chấp
hành Trung ương Đảng. Tháp tùng đoàn VN đến Thành Đô có 3 cán bộ cấp cao
là Hồng Hà – Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Hoàng Bích Sơn – Trưởng
Ban đối ngoại Trung ương và Đinh Nho Liêm – Thứ trưởng Bộ Ngoại giao.
Trên chuyên cơ đưa đoàn VN từ sân bay Nội Bài đi Thành Đô còn có
cả Trương Đức Duy – Đại sứ đặc mệnh toàn quyền TQ tại VN. Song điều đặc
biệt đáng chú ý là Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch không có tên trong danh
sách tham dự cuộc họp này.
Trong cuộc gặp thượng đỉnh này tại Thành Đô, hai bên đã ký kết một văn bản thỏa thuận gọi là “Kỷ yếu Hội nghị” để
chính thức bình thường hóa quan hệ hai
nước và cùng nhau thực hiện những thỏa thuận vừa đạt được giữa
lãnh đạo hai Đảng và hai Nhà nước. Cuộc gặp thượng đỉnh này cũng như nội
dung thỏa thuận của Hội nghị Thành Đô từ đó cho đến nay vẫn luôn nằm
trong bí mật và cho đến tận hôm nay – mặc dù 24 năm đã qua – nó vẫn
chưa được chính thức công bố cho nhân dân VN cũng như các nước liên quan
và cộng đồng quốc tế được biết!
Hội nghị Thành Đô diễn ra trong bối cảnh quốc tế như thế nào?
Trước
hết không thể không nói là cuộc
thảm sát Thiên An Môn tại Bắc Kinh ngày 4/6/1989. Gần 2 tháng trước đó,
từ giữa tháng 4/1989, hàng ngày có hàng chục ngàn, có hôm lên đến cả
trăm ngàn sinh viên và thanh niên thay nhau tổ chức biểu tình ngồi và
nằm để chiếm quảng trường Thiên An Môn. Họ giương cao các khẩu
hiệu chống tham nhũng, ủng hộ cải cách và đòi tự do, dân chủ. Với bản
chất khát máu và phi nhân tính, thay vì đối thoại để có một giải pháp ôn
hòa, nhà cầm quyền TQ đã sử dụng lực lượng quân đội với hàng trăm xe
tăng mờ sáng ngày 4/6/1989 tràn vào quảng trường Thiên An Môn tàn sát dã
man người biểu tình trong tay không một tấc sắt và là
đồng bào ruột thịt của mình! Xe tăng nghiền nát hàng ngàn thanh niên
sinh viên, máu chảy lênh láng khắp quảng trường! Cả thế giới bàng hoàng!
Mỹ và phương Tây cùng các nước tiến bộ trên toàn thế giới đồng thanh
lên án, tố cáo, trừng phạt và cô lập Trung Quốc. Nhà cầm quyền cộng sản
Trung Hoa kể từ khi thành lập (1949) đến nay chưa khi nào lại bị thế
giới nguyền rủa và cô lập như lúc này. Đây là vết nhơ ngàn đời khó
rửa đối với chính quyền cộng sản Trung Quốc!
Ngoài
ra, một sự kiện lịch sử không thể không nói, đó là hàng loạt các ĐCS và
hệ thống XHCN nối tiếp nhau tan
rã và sụp đổ ở Đông Âu. Bắt đầu từ cuối năm 1989 cho đến đầu năm
1990, chế độ XHCN ở 6 nước cộng sản Đông Âu lần lượt và dồn dập sụp
đổ: Đầu tiên là Ba Lan (6/1989), tiếp đến là Hungary (10/1989),
rồi đến Đông Đức (11/1989), tiếp theo là Tiệp Khắc (12/1989), sau đó
là Rumani (12/1989), và tiếp đến là Bulgary(1/1990). Muộn hơn là Albany
(3/1991), rồi đến Nam Tư (6/1991) và cuối cùng là Liên bang Cộng hòa
XHCN Xô viết tức Liên Xô (19/8/1991). Chỉ trước đấy không lâu, vào đầu
tháng 10/1989, lãnh đạo các ĐCS và các nước XHCN “anh em” còn tụ tập
nhau ở Berlin để cùng nhau tham dự Lễ kỷ niệm 40
năm Quốc khánh CHDC Đức (7/10/1989) và bàn việc bảo vệ, giữ vững chế độ
XHCN trên thế giới. Đoàn Việt Nam do TBT Nguyễn Văn Linh dẫn đầu sang
Berlin tham dự lễ kỷ niệm này, nhưng chỉ đúng một tháng sau khi về đến
Hà Nội thì bức tường Berlin đổ sụp. Erich Honecker - TBT Đảng kiêm Chủ
tịch Hội đồng Nhà nước CHDC Đức – bị lật đổ. Còn lãnh tụ Nikolai
Ceaucescu của Đảng và Nhà nước Rumani, sau khi dự lễ kỷ niệm 40 năm Quốc
khánh CHDC Đức, khi trở về Bucarest ông còn kịp tổ chức “thành
công” Đại hội lần thứ 14 Đảng Cộng sản Rumani (cuối tháng 11/1989) và
tất nhiên ông được bầu lại làm TBT thêm một nhiệm
kỳ 5 năm nữa! Nhưng chỉ một tháng sau - ngày 20/12/1989 – khi vừa chân
ướt chân ráo về đến thủ đô Bucarest sau 2 ngày đi thăm chính thức nước
Cộng hòa Hồi giáo Iran thì Ceaucescu bị truy bắt, cả 2 vợ chồng phải
chạy trốn khỏi thủ đô và sau đó đều bị bắt và bị một tòa án quân
sự tuyên tử hình về tội diệt chủng và tham nhũng, rồi cả hai nhanh
chóng bị mang ra hành quyết vào rạng sáng ngày 25/12/1989. Theo cuốn hồi
ký “Hồi ức và suy nghĩ” của nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ thì Nikolai Ceaucescu “là người trong thời gian ở Berlin xem ra tâm đầu ý hợp
với TBT Nguyễn Văn Linh trong việc bàn chuyện tâm huyết cứu vãn sự nghiệp XHCN thế giới đang lâm nguy”. Nhiều
nguồn tin khác còn nói chính trong lần gặp nhau ở Berlin này, hai vị
lãnh đạo của Việt Nam và Rumani đã đồng ý là năm sau (1990) sẽ cùng đứng
ra đồng tổ chức một cuộc Hội nghị toàn cầu các đảng cộng sản và công
nhân nhằm xiết chặt đoàn kết và khẳng định xu thế tất thắng của Chủ
nghĩa Xã hội trên phạm vi toàn thế giới! Những sự kiện dồn dập nói
trên ở Đông Âu nối tiếp xảy ra chỉ trong vòng không đến một
năm khiến TBT Nguyễn Văn Linh và Lãnh đạo Đảng VN bồn chồn và vô
cùng lo lắng, đứng ngồi không yên!
Nắm
bắt được tâm trạng hoảng hốt, lo lắng của lãnh đạo Đảng và Nhà nước VN
và biết chắc được lãnh đạo VN sẽ sẵn sàng nhân nhượng để khôi phục lại
quan hệ với Đảng và Nhà nước với TQ nhằm có đồng minh và chỗ dựa trong
việc bảo vệ Đảng và chế độ XHCN tại VN, Trung Nam Hải quyết định
hành động! Đặng Tiểu Bình, Cố vấn tối cao kiêm Chủ tịch Quân ủy Trung
ương ĐCSTQ - kẻ đã xua 600.000 quân tràn qua 6 tỉnh biên giới phía
Bắc để xâm lược nước ta 10 năm trước (tháng 2/1979 ) - cùng các lãnh
đạo chóp
bu khác ở Trung Nam Hải nhận định đây là cơ hội quí hơn vàng để thực
hiện quỷ kế chia rẽ, lừa gạt và phân hóa nội bộ VN nhằm đưa Ban
lãnh đạo Đảng và Nhà nước VN nằm trọn trong quỹ đạo phụ thuộc toàn
diện vào Cộng sản Trung Quốc! Chúng đưa ra chiêu trò cực kỳ thâm
hiểm là gợi ý tổ chức một cuộc hội nghị thượng đỉnh giữa lãnh đạo hai
Đảng và Nhà nước để cải thiện và bình thường hóa quan hệ Việt Nam -Trung
Quốc nhằm bảo vệ thành quả cách mạng và bảo vệ CNXH ở mỗi nước! Cơ quan
được giao thực hiện quỷ kế này không ai khác chính là Hoa Nam Tình báo.
Cơ quan tình báo này thừa biết, nếu
thông qua kênh ngoại giao chính thức là Bộ Ngoại giao thì chắc chắn quỷ
kế này sẽ bị bại lộ và nhiều khả năng sẽ bất thành, bởi vì ở Bộ Ngoại
giao có Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, Thứ trưởng Trần Quang Cơ và Trợ lý
Ngoại trưởng Vũ Khoan là 3 nhà lãnh đạo rất am hiểu và luôn cảnh giác
cao độ với mọi âm mưu, thủ đoạn của Trung Quốc. Do vậy phải tránh BNG và
phải đi đường vòng. Đường vòng này đã được Hoa Nam Tình báo xác định từ
trước là Ban Đối ngoại Trung ương và Bộ Quốc phòng!
Trương
Đức Duy (sinh năm 1930 tại Quảng Đông, là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền TQ
tại VN từ
tháng 4/1989 đến 3/1993, nói tiếng Việt giỏi như người Việt, người
vốn không xa lạ gì với cơ quan an ninh VN) được giao trực tiếp thực hiện
kế hoạch này. Chỉ chưa đầy hai tháng sau khi được cử giữ chức Đại
sứ đặc mệnh toàn quyền tại Việt Nam, Trương Đức Duy đã thực hiện một
bước đi ngoạn mục là qua mặt và phớt lờ Bộ Ngoại giao, trực tiếp liên hệ
và tiếp xúc với hai cơ quan nói trên của VN là nơi vốn Trương đã có sẵn
các mối quan hệ đặc biệt từ khi ông ta còn là phiên dịch kiêm Bí thư
thứ ba rồi thứ nhất Sứ quán TQ ở Hà nội 20 năm về trước. Trương Đức Duy
đã được sắp xếp dễ dàng gặp Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh 3 lần trong
vòng chưa đầy 3 tháng (trưa 6/6, chiều 20/8 và sáng 29/8/1989), gặp TBT
Nguyễn Văn Linh 3 lần (ngày 5/6, tối 22/8 và chiều 29/8/1989). Những
lần Trương đến Bộ Quốc phòng hay Ban Đối ngoại Trung ương gặp lãnh đạo
VN, xe Trương thường không cắm cờ và đi vào cửa phụ, Trương không mang
theo phiên dịch và thư ký ghi chép và ông ta cũng yêu cầu phía ta không
bố trí phiên dịch và thư ký, những cuộc gặp đó chỉ có 2 người: 1 chủ và 1
khách!
Đương
nhiên, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch không được biết trước những cuộc
gặp này, mà chỉ được thông báo sau khi đã diễn ra, thậm chí có
những cuộc gặp ông còn không được cho biết, mặc dù
ông đang là Uỷ viên Bộ chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Phó
Thủ tướng) kiêm Bộ trưởng Ngoại giao!
Nhớ
lại, vào một tối đầu Thu 1987 tại New York, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ
Thạch có nói riêng với người viết bài này khi ông dẫn đầu phái đoàn
CHXHCN Việt Nam sang dự Khóa họp thứ 42 Đại hội đồng LHQ: “Họ công khai ra điều kiện cho lãnh đạo ta là “Nếu
VN thực tâm muốn cải thiện và bình thường hóa quan hệ với TQ thì
việc đầu tiên VN phải làm là loại bỏ Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch”. Vâng,
có lẽ tất cả các cán
bộ đối ngoại ở BNG hoặc ở các cơ quan đại diện ngoại giao VN ở nước
ngoài trong khoảng thời kỳ 1987-1990 đều được biết đòi hỏi cực kỳ ngang
ngược và trịch thượng này của TQ! Nhiều cán bộ trung cao cấp của Bộ
Ngoại giao hồi đó còn trao đổi ở chốn riêng tư với nhau: “Lần này thủ trưởng của chúng ta có lẽ khó thoát khỏi là “vật tế thần!”. Tôi
thật không ngờ và rất buồn là ngay sau Hội nghị Thành Đô, Ngoại trưởng
Nguyễn Cơ Thạch – “kiến trúc sư của nền ngoại giao Việt Nam” – một chiến
lược gia tài ba, một nhà lãnh đạo có kiến thức uyên thâm và tầm nhìn xa
trông rộng, một nhà ngoại giao sắc sảo và quả quyết,
người mà nhiều chính khách phương Tây rất khâm phục và kính nể, lại
phải sớm rời khỏi mọi chức vụ (Ủy viên BCT, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng
Ngoại giao) và bị loại khỏi danh sách đề cử vào BCHTW khóa VII! Chỉ
trước đấy không lâu, ngay đầu năm 1990, ông còn được dự kiến làm Thủ
tướng nếu ông Võ Văn Kiệt lên làm Tổng Bí thư ở Đại hội VII.
Việc ông
bị loại bỏ khỏi tất cả các chức vụ lãnh đạo Đảng và Nhà nước có phải là
một trong các điều kiện mà TQ đã buộc ta phải chấp nhận ở Hội
nghị Thành Đô hay không, là một điều không khó để chứng minh. Còn về
câu nói “Thế là một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu!”
có phải là ý kiến nhận định và đánh giá về kết quả Hội nghị Thành Đô
của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch hay không? Ông nói câu này khi nào, với
ai và trong bối cảnh nào thì chưa thấy có nguồn tin nào khẳng định. Khi
phải thôi chức Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại
giao ở tuổi tròn “thất thập” (1991), tuy bị sốc, nhưng sức khỏe về trí
lực và thể lực của ông vẫn còn rất tốt. Ông vẫn được Bộ Chính trị giao
công tác mới là chủ trì tổng kết công tác ngoại giao, nghiên cứu kinh tế
thế giới và chiến
lược đối ngoại cho đến khi ông mất (năm 1998). Chính trong thời gian
này ông đã hoàn chỉnh cuốn hồi ký mà ông đã khởi bút viết ngay sau
khi Hội nghị Paris về VN kết thúc (1973). Cuốn hồi ký này nói về
những năm tháng vinh quang, những khoảnh khắc bực tức, nóng giận
và cay đắng trong cuộc đời 60 năm hoạt động cách mạng trong đó có 44
năm làm công tác ngoại giao của ông. Chắc chắn là nhiều bí mật đối ngoại
của Nhà nước cũng như của riêng ông sẽ được “bật mí” một khi cuốn hồi
ký này được công bố!
Gần
1/4 thế kỷ đã trôi qua kể từ Hội nghị
Thành Đô, nhiều thành viên đoàn VN tham dự hội nghị này không còn nữa,
nhưng hậu quả để lại của cuộc gặp này là khôn lường, gây ra những thiệt
hại to lớn và nguy hiểm cho đất nước và nhân dân ta ở hầu hết các lĩnh
vực: từ chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, văn hóa – giáo dục, chủ
quyền đất nước, chính trị nội bộ đến vấn đề an ninh quốc gia trên phạm
vi toàn lãnh thổ, từ biên giới phía Bắc cho đến các tỉnh miền Tây Nam
bộ, từ biển Đông vào đến các tỉnh ven biển và giáp với biên giới Lào và
Campuchia, và đặc biệt là vùng Tây Nguyên chiến lược. Không thể thống kê
hết những vấn đề nói trên,
chỉ xin đề cập đến một vài sự việc nổi cộm sau:
1-
Từ sau Hội nghị Thành Đô, cuộc chiến tranh xâm lược của TQ ở 6 tỉnh
biên giới phía Bắc nước ta (17/2/1979) không được nhắc đến nữa, thậm chí
những hoạt động của người dân tưởng niệm và vinh danh các liệt sĩ hy
sinh trong cuộc chiến này hoặc các cuộc biểu tình yêu nước chống TQ xâm
phạm biển đảo và sát hại ngư dân ta đều bị ngăn cấm và đàn áp.
Hơn 35
năm đã trôi qua, tại sao cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chống xâm
lược bành trướng phương
Bắc này cũng như việc TQ dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa
(1974) và đảo Gạc Ma của ta ở Trường Sa (1988) không được tổng kết
và đưa vào lịch sử và sách giáo khoa để giáo dục lòng yêu nước cho học
sinh, sinh viên và thanh niên ta?
2- Tại
sao ta cho phép hoặc không ngăn chặn việc TQ thuê hàng trăm ngàn héc ta
rừng đầu nguồn ở các tỉnh biên giới chiến lược phía Bắc với thời hạn
lâu dài 50-70 năm?
3- Một khu vực có vị trí
chiến lược vô cùng quan trọng, rất nhạy cảm về mặt an ninh – quốc phòng là Tây Nguyên (Ai kiểm soát Tây Nguyên thì có thể khống chế được toàn bộ bán đảo Đông Dương!) thì
TQ lại dễ dàng được phép đưa hàng ngàn công nhân vào đây để thực hiện
dự án bauxite đầy nghi ngờ và tranh cãi không những về an ninh – quốc
phòng mà cả về hậu quả sinh thái – môi trường, cũng như về hiệu quả kinh
tế – xã hội, mặc dù có hàng ngàn cựu cán bộ lãnh đạo, nhân sĩ trí thức
và các nhà khoa học lên tiếng kiến nghị Bộ Chính trị, Quốc hội và Nhà
nước dừng dự án này!
4- Tại sao các công ty TQ lại trúng đến 80-90%
các gói thầu trọn gói EPC (thiết kế – mua sắm – xây dựng) trong các
dự án về KT-XH, đặc biệt là các dự án nhiệt điện, và tại sao ta chấp
nhận hàng chục ngàn lao động phổ thông TQ (có phép và không phép) vào
thực hiện các dự án này? Tại sao ta lại để cho thương nhân và các doanh
nghiệp TQ tự tung tự tác trên khắp lãnh thổ của ta, lừa đảo nông dân ta,
lũng đoạn và phá hoại nền kinh tế đất nước ta một cách dễ dàng như chốn
không người như vậy?
5-
Gần đây TQ ngang ngược và trắng trợn hạ đặt giàn khoan Haiyang
Shiyou 981 để khoan thăm dò dầu khí sâu trong thềm lục địa và vùng đặc
quyền kinh tế của VN mà ta lại không dám nhân cơ hội này kiện TQ ra
trước tòa án quốc tế như Philippines đã làm? Do ta chưa chuẩn bị kịp hồ
sơ pháp lý hay vì một nguyên nhân nào khác? Trong vụ giàn khoan này
TQ đã không chỉ chà đạp luật pháp và chủ quyền của VN mà còn vi phạm thô
bạo Công ước Luật biển 1982 (UNCLOS) của LHQ. Dư luận rộng rãi trên
toàn thế giới phản đối, lên án TQ và đồng tình, ủng hộ VN. Rất tiếc ta
lại không tận dụng thời cơ và lợi thế này để vạch mặt bọn
“vừa ăn cướp vừa la làng”! Trung Quốc không chỉ ngang ngược mà họ còn
phi lý và trịch thượng nữa! Qua hãng thông tấn chính thức Tân Hoa Xã,
họ đưa ra “4 yêu sách VN không được làm”trong đó họ đề cập xa gần và bóng gió đến thỏa thuận Thành Đô 1990!
- v.v.
- v.v.
Xung
quanh Hội nghị thượng đỉnh và các thỏa thuận mà VN đã ký với TQ ở
Thành Đô có nhiều phân tích, đánh giá, nhận định, thông tin trái chiều,
thậm chí cả những đồn thổi nguy hiểm, bất lợi về mặt dư luận… làm người
dân hoang mang, bán tín bán nghi, không biết đâu là hư,
đâu là thực! Mọi hiện tượng trên sẽ chấm dứt một khi Đảng và Nhà nước
báo cáo cho toàn dân biết sự thật về mối quan hệ Việt – Trung, đặc biệt
là các thỏa thuận mà lãnh đạo ta đã ký với TQ ở Thành Đô.
Là
chủ nhân ông của đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được
biết về những vấn đề trọng đại của quốc gia, trong đó có sự thật về quan
hệ VN – TQ trong những năm qua, đặc biệt là các thỏa thuận đã ký với
TQ ở Hội nghị Thành Đô năm 1990. Hơn nữa, Điều 4 Hiến pháp 2013 đã
ghi rất rõ: “ĐCSVN… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội… Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Do
vậy việc lãnh đạo Đảng và Nhà nước báo cáo cho toàn dân biết sự thật về
mối bang giao Việt – Trung và các thỏa thuận đã ký với TQ ở Thành Đô là
một việc nên làm, cần làm và phải được làm vì điều này chỉ có lợi cho
Nhân dân và Đất nước.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI sẽ sớm nhóm họp Hội nghị Trung ương lần thứ 10 trong thời gian tới để duyệt xét mối quan hệ VN – TQ và đưa ra các quyết sách liên quan. Nhân dân rất kỳ vọng một trong các quyết sách này là Đảng sẽ báo cáo cho toàn dân biết sự thực về mối quan hệ với TQ trong 1/4 thế kỷ qua trong đó có các thỏa thuận mà lãnh đạo Đảng ta đã ký với TQ ở Hội nghị Thành Đô năm 1990 kèm theo một lời tạ lỗi chân thành! Nếu đúng thì đây sẽ là một trong các quyết định dũng cảm, hợp lòng dân và quan trọng nhất trong lịch sử tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI sẽ sớm nhóm họp Hội nghị Trung ương lần thứ 10 trong thời gian tới để duyệt xét mối quan hệ VN – TQ và đưa ra các quyết sách liên quan. Nhân dân rất kỳ vọng một trong các quyết sách này là Đảng sẽ báo cáo cho toàn dân biết sự thực về mối quan hệ với TQ trong 1/4 thế kỷ qua trong đó có các thỏa thuận mà lãnh đạo Đảng ta đã ký với TQ ở Hội nghị Thành Đô năm 1990 kèm theo một lời tạ lỗi chân thành! Nếu đúng thì đây sẽ là một trong các quyết định dũng cảm, hợp lòng dân và quan trọng nhất trong lịch sử tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hà Nội, 3/8/2014
N.Đ.Q.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen