–Làm cách mạng không phải để dựng nên một nhà nước độc tài
Tháng
4 28, 2012
pro&contra: Hai anh em, ông Huỳnh Nhật Hải sinh năm 1943, ông
Huỳnh Nhật Tấn sinh năm 1946, là những người, vào cuối năm 1988, đã cùng nhau tự
ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đồng thời từ bỏ luôn những chức vụ đang
đảm nhiệm kèm theo những tiềm năng rất lớn về quyền lực, quyền lợi: Phó Chủ tịch
Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Lạt kiêm Thành ủy viên (đối với ông Huỳnh Nhật Hải)
và Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng kiêm Tỉnh ủy viên dự khuyết (đối với
ông Huỳnh Nhật Tấn). Điều gì đã khiến hai đảng viên cộng sản đầy tiềm năng của
một gia đình có truyền thống cách mạng từ trước năm 1945 lại có quyết định chia
tay cách mạng khi sự nghiệp “cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước”đã thành công hoàn toàn?
___________________
Phạm Hồng Sơn: Hai ông có thể cho
biết con đường nào đã đưa các ông đến với ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Hải: Có thể nói hai anh em
chúng tôi đã được “nhuộm đỏ” từ bé. Chúng tôi đã có thiện cảm, tinh thần ủng hộ,
và làm những việc có lợi cho những tổ chức của cách mạng như Việt Minh hay Mặt
trận Dân tộc Giải Phóng miền Nam Việt Nam (Mặt trận) ngay từ khi còn rất nhỏ
tuổi. Vì ba má tôi là một gia đình tư sản ủng hộ Việt Minh tại Đà Lạt từ trước
năm 1945. Ba tôi là hội viên Công hội Đỏ và tham gia cướp chính quyền tại Đà Lạt
vào năm 1945 và sau đó trở thành đảng viên bí mật của Đảng Cộng sản Đông Dương
(tên gọi lúc đó của ĐCSVN). Hai anh trai tôi là những người đi tập kết ra Bắc
sau năm 1954.
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói là ngay từ
nhỏ, mở mắt ra là chúng tôi đã được nghe, được thấy, được sống trong tinh thần
của cách mạng, tôi cứ tạm gọi là “cách mạng” đi. Đó là những năm thơ ấu của
chúng tôi ở trong “vùng tự do” liên khu 5, khi gia đình chúng tôi phải tránh sự
truy lùng của Pháp từ khoảng cuối 1945 đến năm 1954, và cả thời gian sau đó khi
ba má tôi trở lại Đà Lạt (sau Hiệp định Genève) để tiếp tục nhiệm vụ ủng hộ bí
mật cho ĐCSVN và Mặt trận dưới hình thức là một gia đình tư sản.
Phạm Hồng Sơn: Hai ông có nhớ đã
có ảnh hưởng nào đến từ ngoài gia đình không?
Huỳnh Nhật Tấn: Có, những trí thức như
giáo sư, nhà văn, nhạc sĩ có tên tuổi lúc đó mà đi với Việt Minh hay Mặt trận
cũng gây cho chúng tôi sự lôi cuốn, cảm hứng âm thầm nhưng rất lớn. Đặc biệt là
qua quan sát, tiếp xúc với những cán bộ hoạt động bí mật đã sống ở nhà tôi thì
hai anh em tôi thấy đó là những con người rất đáng khâm phục, họ vừa có tinh
thần kỷ luật, chịu đựng, hy sinh rất lớn vừa có những lý tưởng rất cao đẹp là
quyết giành lại độc lập cho đất nước và tự do cho dân tộc.
Huỳnh Nhật Hải: Một yếu tố nữa cũng
làm cho chúng tôi ủng hộ Mặt trận là sự xuất hiện của quân đội Mỹ tại miền Nam.
Sự xuất hiện đó làm cho những người như chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm về chủ
quyền dân tộc. Chúng tôi cảm thấy là miền Nam đang bị người Mỹ xâm lăng và cần
phải chống lại họ và chính quyền thân Mỹ tại miền Nam.
Phạm Hồng Sơn: Thời gian từ khi
Mặt trận được thành lập (năm 1960) cho tới năm 1975 các ông làm những việc gì để
ủng hộ “cách mạng”?
Huỳnh Nhật Hải: Công việc của cả hai
anh em chúng tôi đều cùng có hai giai đoạn khác nhau, trước và sau khi chúng tôi
“nhẩy núi”, tức là phải bỏ gia đình để vào tận căn cứ trong rừng sâu để hoạt
động. Tôi “nhảy núi” vào đúng mồng 3 Tết Mậu Thân 1968 còn em tôi, Huỳnh Nhật
Tấn, “nhảy núi” trước đó vài tháng khi đã bị lộ.
Huỳnh Nhật Tấn: Trước khi “nhảy núi”,
anh em chúng tôi làm công tác liên lạc, vận động trong giới thanh niên, học
sinh, sinh viên tại Đà Lạt để thành lập các nhóm, tổ chức, đoàn thể hoặc in, tán
phát truyền đơn hay khẩu hiệu đấu tranh cho Mặt trận.
Huỳnh Nhật Hải: Sau khi “nhảy núi”,
hai anh em chúng tôi, mỗi người một nơi, nhưng đều ở bộ phận công tác phong trào
thanh niên học sinh, sinh viên. Anh em chúng tôi thường phải đi vào những “vùng
lõm“ (vùng dân cư mà ban ngày do chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát còn ban
đêm thuộc về lực lượng của Mặt trận) để bắt liên lạc, tiếp nhận hay vận động ủng
hộ về vật chất, tinh thần cho Mặt trận.
Phạm Hồng Sơn: Những công việc đó
chắc phải rất mạo hiểm và hết sức khó khăn?
Huỳnh Nhật Tấn: Đúng thế, chúng tôi
phải rất kiên trì, khôn khéo trong công tác vận động và không phải lần vận động
nào cũng thành công. Cả hai anh em chúng tôi cũng đã bị phục kích hoặc chạm trán
với lực lượng quân đội của Việt Nam Cộng hòa, nhưng rất may cả hai chỉ bị thương
nhẹ trong một, hai lần.
Phạm Hồng Sơn: Sau 30/04/1975 các
ông được giữ ngay chức Phó Chủ tịch UBND Thành phố hoặc Phó Giám đốc Trường
Đảng?
Huỳnh Nhật Hải: Không phải như thế.
Sau 30/04/1975 tôi tiếp tục công tác ở Thành đoàn, sau đó mới chuyển qua công
tác chính quyền. Năm 1977 tôi được kết nạp Đảng. Năm 1979 làm Chủ tịch khu phố I
Thành phố Đà Lạt, rồi sau khi đi học Trường Đảng ở Tây Nguyên trong một năm đến
năm 1981 là tôi trở thành Phó Chủ tịch UBND Thành phố Đà Lạt, là Thành ủy
viên.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi thì được kết nạp
Đảng từ năm 1972 sau khi “nhảy núi”. Ngay tháng 10/1975 tôi đã được chọn vào số
cán bộ đầu tiên gửi ra Bắc học ở Trường Tuyên huấn Trung ương ở khu Cầu Giấy, Hà
Nội trong 3 năm rồi trở về giảng dạy môn kinh tế chính trị tại Trường Đảng tỉnh
Lâm Đồng. Và sau lần ra học tiếp ở Hà Nội tại Trường Tuyên Huấn Trung Ương trong
03 năm nữa, đến năm 1986 tôi được bổ nhiệm vào chức Phó Giám đốc trường Đảng
tỉnh Lâm Đồng, đồng thời được cơ cấu vào cấp Tỉnh ủy, là Tỉnh ủy viên dự
khuyết.
Phạm Hồng Sơn: Một cách ngắn gọn,
lý do gì đã khiến hai ông gần như đồng thời quyết định từ bỏ Đảng kiêm các chức
vụ đó?
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi còn nhớ trong lá
đơn xin ra khỏi Đảng lúc đó tôi có viết một câu: “Tôi không tin ĐCSVN có thể
lãnh đạo đưa đất nước đạt được những điều tốt đẹp như Đảng thường
nói.”
Huỳnh Nhật Hải: Còn trong lá đơn của
tôi viết sau ông em tôi một vài tháng, tôi nhớ đã viết là: “Tôi không còn động
cơ để phấn đấu cho mục tiêu và lý tưởng của Đảng nữa.” Nhưng thực sự trong thâm
tâm thì cũng giống như ông em tôi đã nói ở trên. Tôi không tin ĐCSVN
nữa.
Phạm Hồng Sơn: Quá trình đi đến sự
bất tín đó diễn ra như thế nào?
Huỳnh Nhật Hải: Đó là một quãng thời
gian kéo dài khoảng 5-7 năm, thông qua những quan sát, tìm hiểu, trao đổi, bàn
bạc và trằn trọc từ mỗi bản thân và gần như chỉ giữa hai anh em chúng
tôi.
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói chúng tôi
đi đến sự bất tín vào ĐCSVN là dựa vào những gì chúng tôi thấy, chúng tôi gặp
trên thực tế hơn là từ vấn đề lý luận.
Phạm Hồng Sơn: Những “thực tế” nào
quan trọng nhất khiến hai ông nhận thức lại ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Tấn: Đó chính là những
chính sách về quản lý xã hội, điều hành kinh tế và việc tôn trọng các quyền tự
do, dân chủ của người dân của ĐCSVN. Về quản lý xã hội, ĐCSVN đã không quản lý
bằng pháp luật mà bằng sự tùy tiện, áp đặt, gần như hoàn toàn chỉ dựa theo các
chỉ thị, ý muốn từ lãnh đạo Đảng. Ví dụ việc tịch thu nhà cửa, tài sản hay đưa
đi “học tập cải tạo”, thực chất là bỏ tù con người, đều không dựa trên pháp luật
hay xét xử của tòa án. Điều hành kinh tế thì lúc đó chúng tôi thấy những chính
sách rất kỳ cục và phản khoa học, ví dụ như có những chỉ thị là Đà Lạt phải sản
xuất bao nhiêu rau hay các huyện khác phải sản xuất bao nhiều mì[i] mà không cần biết khả năng và lợi thế về thổ
nhưỡng, thói quen canh tác của người dân hoặc việc giao quyền lãnh đạo kinh tế
không dựa vào chuyên môn, kinh nghiệm mà lại dựa vào thành phần giai cấp và sự
gắn bó với Đảng. Về các quyền tự do dân chủ của người dân, càng ngày chúng tôi
càng thấy thực tế lại tồi tệ và khó khăn hơn rất nhiều so với thời Việt Nam Cộng
hòa. Ví dụ như khi hoạt động trước 1975, chúng tôi đã từng cho một số viên chức
chính quyền đọc cả cương lĩnh của Mặt trận nhưng những người đó không coi chúng
tôi là thù địch, họ coi việc khác biệt quan điểm là chuyện hết sức bình thường.
Nhưng sau năm 1975 mọi thứ không như thế nữa, tất cả mọi hoạt động, kể cả trong
tư tưởng, mà khác với quan điểm của ĐCSVN thì đều không được chấp nhận. Báo chí
tư nhân, biểu tình, bãi công, bãi thị đã hoàn toàn bị cấm ngặt mặc dù những bất
công, nhu cầu lên tiếng của xã hội hết sức bức bối. Có thể nói điều lớn nhất để
chúng tôi nhận thức lại ĐCSVN là sự độc tài toàn trị dựa trên bạo lực và không
tôn trọng những quyền căn bản của người dân.
Phạm Hồng Sơn: Các ông đã quen
biết những nhân vật như ông Hà Sĩ Phu hay ông Mai Thái Lĩnh,…những cư dân tại Đà
Lạt lúc đó chưa?
Huỳnh Nhật Hải: Chúng tôi chưa biết
ông Hà Sĩ Phu, còn ông Mai Thái Lĩnh thì chúng tôi đã biết nhau từ hồi cùng
“nhảy núi” nhưng sau 30/04/1975 chúng tôi gần như chưa trao đổi hay bàn luận gì
với nhau cả. Anh em chúng tôi trước khi quyết định bỏ về đã nói với nhau là
“chúng ta đi làm cách mạng không phải để xây dựng nên một nhà nước chuyên chính
độc tài như thế này.”
Phạm Hồng Sơn: Gia đình, những
người thân và bạn bè đồng chí của các ông có phản ứng gì trước quyết định
đó?
Huỳnh Nhật Hải: Lúc đó ba má tôi đều
đã qua đời nhưng chúng tôi tin rằng nếu còn sống ba má tôi cũng ủng hộ việc từ
giã ĐCSVN của chúng tôi. Hai bà xã của chúng tôi ủng hộ hoàn toàn quyết định về
nhà tự làm ăn của chúng tôi.
Phạm Hồng Sơn: Thế còn hai anh
trai, những người đã đi tập kết sau 1954, và những đồng chí thân quen của hai
ông?
Huỳnh Nhật Tấn: Anh trai cả của chúng
tôi thì gần như không có ý kiến gì, còn người anh trai thứ hai thì không đồng ý.
Còn những đảng viên đồng sự khác và các cấp lãnh đạo lúc đó hoàn toàn ngạc
nhiên, gần như tất cả mọi người đều khuyên chúng tôi xem xét lại. Có người lúc
đó đã nói với tôi là nếu về thì cuộc sống sẽ rất khó khăn, nhưng tôi xác định
trong lòng là trước đây khó khăn nguy hiểm như thế mà còn chịu được thì lẽ nào
bây giờ lại không.
Phạm Hồng Sơn: Khi “trằn trọc” để
đi đến quyết định cuối cùng, hình ảnh hay tư tưởng của lãnh tụ Hồ Chí Minh có
vấn vương trong “trằn trọc” đó?
Huỳnh Nhật Tấn: Có. Chúng tôi lúc đó
cũng thấy cần phải xem lại cả ông Hồ Chí Minh – lãnh tụ, người sáng lập ra
ĐCSVN.
Phạm Hồng Sơn: Các ông thấy thế
nào?
Huỳnh Nhật Hải: Sau khi cùng tìm hiểu,
trao đổi, bàn luận chúng tôi nhận thấy tình trạng mất tự do, phi dân chủ hay có
thể nói là cuộc sống kìm kẹp, đau thương của nhân dân, của giới trí thức sau
chiến thắng 30/04/1975 ở miền Nam hoàn toàn là sự lặp lại y nguyên tình trạng ở
miền Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 – thời kỳ mà ông Hồ Chí Minh vẫn
hoàn toàn ở trên đỉnh cao quyền lực.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi đã từng tự hỏi là
mục tiêu sâu xa của ông Hồ Chí Minh là gì? Với những gì lịch sử đã diễn ra khi
ông Hồ Chí Minh còn sống thì tôi thấy mục tiêu của ông Hồ Chí Minh vì quyền lực
là chính, còn mục tiêu độc lập cho đất nước hay tự do, dân chủ cho dân tộc, cho
xã hội Việt Nam đã bị ông Hồ Chí Minh coi nhẹ. Hai mục tiêu tốt đẹp đó chỉ là
những ngọn cờ để ĐCSVN lôi kéo, tập hợp quần chúng và giới trí thức cho mục đích
giành quyền lực cho ĐCSVN. Thực tế chính quyền dưới thời ông Hồ Chí Minh đã biểu
hiện đi ngược lại hoàn toàn hai mục tiêu tốt đẹp đó, độc lập cho dân tộc và tự
do, dân chủ cho nhân dân.
Phạm Hồng Sơn: Vâng, về vấn đề tự
do, dân chủ cho nhân dân thì đã rõ, nhưng còn về độc lập dân tộc, xin ông nói rõ
thêm?
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói ông Hồ Chí
Minh đã đưa đất nước thoát khỏi sự phụ thuộc, đô hộ của người Pháp nhưng lại để
đất nước trở lại sự phụ thuộc, khống chế và thôn tính của Trung Quốc cộng sản.
Nếu không có sự đồng ý, chủ kiến ngoại giao của ông Hồ Chí Minh thì không thể có
tình hữu nghị Việt-Trung như “môi với răng” và cũng không thể có Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Một cách ngắn gọn, có thể
nói ông Hồ Chí Minh đã vô tình tạo điều kiện thuận lợi cho sự xâm lăng, thôn
tính của Trung Quốc cộng sản đối với Việt Nam như chúng ta đang chứng
kiến.
Phạm Hồng Sơn: Liệu có công bằng
không khi tình trạng mất độc lập, mất chủ quyền hiện nay qui hết cho Hồ Chí
Minh?
Huỳnh Nhật Tấn: Đúng là tình trạng lâm
nguy của đất nước hiện nay không thể qui hết cho ông Hồ Chí Minh. Nhưng bất kỳ
một lãnh tụ, một nhà sáng lập của một đảng, một tổ chức chính trị nào cũng đều
có ảnh hưởng rất căn bản tới tầm nhìn, hành động của các thế hệ kế tiếp, dù xấu
hay tốt. Tôi nhớ ngay trong văn kiện, khẩu hiệu của ĐCSVN vẫn luôn khẳng định
ông Hồ Chí Minh là người sáng lập, tổ chức, lãnh đạo, rèn luyện “Đảng ta”, tức
là ông Hồ Chí Minh đã là kiến trúc sư cho mọi chính sách, đường lối của ĐCSVN
cũng như thể chế, cung cách quản lý xã hội của ĐCSVN.
Huỳnh Nhật Hải: Đúng như thế, theo
tôi, mặc dù ông Hồ Chí Minh đã mất rồi nhưng tư tưởng, đường lối chính trị của
ông ấy vẫn được tiếp tục kế thừa trong ĐCSVN. Không phải ngẫu nhiên mà ĐCSVN
hiện nay vẫn hô hào học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Phạm Hồng Sơn: Nhưng nhiều người
cho rằng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh là rất tốt đẹp, đáng học
theo?
Huỳnh Nhật Hải: Đúng, rất tốt đẹp và
đáng học nếu chỉ căn cứ vào lời nói và khẩu hiệu như ông Hồ Chí Minh đã đề ra.
Và đúng là ĐSCVN hiện nay cũng đang thực hiện đúng như thế, các khẩu hiệu, lời
nói, mục tiêu của họ hiện nay cũng rất hoặc khá tốt đẹp, nhưng hành động và thực
tế thì lại hoàn toàn ngược lại – cũng như ông Hồ Chí Minh.
Huỳnh Nhật Tấn: Nếu chỉ căn cứ vào
truyền thống nhân ái của người Việt Nam thông thường thôi thì cũng thấy đáng lý
ra, với cương vị là người có quyền hành cao nhất, ông Hồ Chí Minh phải ra lịnh
không được giết hoặc hãm hại ân nhân của mình như vụ xử bắn bà Nguyễn Thị
Năm và nhiều người khác trong Cải cách Ruộng đất. Hoặc những vụ bắt bớ,
thanh trừng các đồng sự, các ân nhân của ĐCSVN sau này mà không qua xét xử thì
ông Hồ Chí Minh không thể không biết là trái đạo lý. Nếu ông Hồ Chí Minh thực sự
là người vì nước vì dân thì sau khi lên nắm quyền, điều đầu tiên ông Hồ Chí Minh
phải làm là phải để nhân dân và giới trí thức có nhiều tự do hơn thời thực dân
Pháp chớ.
Phạm Hồng Sơn: Nếu được sống lại
thời tuổi trẻ một lần nữa, các ông có tiếp tục ủng hộ và đi theo Việt Minh, Mặt
trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam hay ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Hải: Không, không bao
giờ.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi sẽ phải bình tĩnh
hơn, tìm hiểu xem họ có ủng hộ và có tư tưởng dân chủ thực sự không, chứ không
thể chỉ căn cứ vào lời nói và tuyên truyền của họ. Theo tôi, vấn đề dân chủ phải
được đặt cao hơn vấn đề dân tộc vì chỉ có dân chủ mới giúp cho dân tộc được tự
do đúng nghĩa và khi đó đất nước mới có nền độc lập bền vững.
Phạm Hồng Sơn: Ngày 30/04/1975 các
ông đang ở đâu và cảm xúc như thế nào?
Huỳnh Nhật Tấn: Lúc đó tôi đang ở Đà
Lạt. Tôi đã trở về Đà Lạt từ ngày 03/04/1975 với tư thế của người chiến
thắng.
Huỳnh Nhật Hải: Tôi về Đà Lạt sau ông
em tôi một ngày, ngày 04/04/1975. Cảm xúc của tôi là sung sướng vô cùng, nhất là
khi gặp lại má tôi – má đã tưởng tôi hy sinh từ năm 1971 và đã đưa ảnh tôi lên
bàn thờ.
Phạm Hồng Sơn: Dịp 30/04 hàng năm
vẫn là một trong những ngày lễ lớn của cả đất nước, cảm xúc của các ông ra sao
trong những ngày này?
Huỳnh Nhật Hải: Buồn. Nếu không có
cuộc chiến tranh tương tàn giữa hai miền trước 1975 thì dân tộc này không có cái
bất hạnh, đau khổ như ngày hôm nay.
Huỳnh Nhật Tấn: Buồn. Một ngày quá
buồn. Cái chiến thắng 30/04 chỉ đem lại một sự áp bức trên mọi phương diện cho
nhân dân, đất nước và lại nặng nề hơn cả thời Pháp thuộc.
Phạm Hồng Sơn: Nếu bây giờ vô tình
hai ông gặp lại một người là cựu viên chức cũ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và
người đó chính là “kẻ thù” của ông trước 1975, điều trước tiên hai ông muốn nói
là gì?
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi có lỗi với dân
tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài
hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn bản để
bảo đảm tự do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô tình góp
công sức đưa những người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là vì quyền
lực tới phá bỏ một chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự do, dân chủ
và nhân bản tại miền Nam Việt Nam.
Huỳnh Nhật Hải: Bây giờ nhìn lại, con
đường chúng tôi đã đi trước 1975 là một con đường sai lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó
của chúng tôi đã đem lại bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân tộc.
Phạm Hồng Sơn: Xin trân trọng cảm
ơn ông Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn.
______________________
Chú thích ảnh: Ông Huỳnh Nhật Hải (trái) và ông Huỳnh
Nhật Tấn (phải)
© 2012 pro&contra
[i] “Mì” tức là “sắn”
theo tiếng miền Bắc
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen