MƯỜNG
GIANG
Sau ngày 30-4-1975, hằng năm CSVN đều
tổ chức ăn mừng ‘ chiến thắng Tết Mậu Thân 1968 ‘ và ‘ đại thắng mùa xuân 1975
‘. Nhưng tuyệt đối không nhắc tới một chữ về những đau thương trầm thống mà
giặc Tàu đã gây cho Nước Việt và Ðồng Bào Việt trong cuộc chiến xăm lăng tại biên giới Hoa-Việt, khởi sự từ ngày 17-2-1979
và kéo dài tới đầu thập niên 1990 mới tạm dứt, sau khi toàn bộ chóp bu VC lúc
đó gồm Phạm Văn Đồng, Đổ Mười, Nguyễn Văn Linh..sang Thành Đô (Tứ Xuyên) bí mật
ký kết văn tự đầu hàng và bán nước cho Tàu đỏ.
Ðã vậy VC còn công khai khinh thường
và hạ nhục cả nước, khi đảng cùng với Trung Cộng rầm rộ tổ chức ăn mừng đã hoàn
thành việc cắm mốc biên giói Việt-Trung tại Ải Nam Quan vào ngày 24-2-2009.
Biên bản do Nguyễn tấn Dũng ký vào cuối năm 2008 nhưng đã tuyệt tích vì bị đảng
ém nhẹm nên người dân không hề hay biết một điều gì.
Tháng 4-2008, VC giup Tàu đỏ tổ chức
rầm rộ cuộc rước đuốc máu thế vận hội Bắc Kinh tại Sài Gòn. Ngày 1-10-2012, VC
hoan hĩ gửi điện văn và tổ chức ăn mừng
quốc khánh Trung Cộng tại quần đảo Hoàng Sa của VN, mà giặc đã cưởng
đoạt vào tháng 1-1974..Toàn cảnh bức tranh “ đời đời nhớ ơn giặc Tàu “ được Hồ
Chí Minh và CSVN khắc cột ghi tâm, nên chuyện những người yêu nước chống ngoại
xâm hiện nay tại VN bị tàn sát, tù đày, thủ tiêu và khủng bố..cũng chẳng làm ai
ngạc nhiên và khiếp sợ, vì bộ mặt thặt của đảng từ trên xuống dưới đã bị nhận
diện qua “ chân dung quyền lực “, sau khi cái gọi là “ hội nghị tự phê của đảng
làn thứ 6 “ khai mạc và kết thúc vào tháng 10-2012, được các diễn đàn “ Dân Lam
Báo, Quan Làm Báo, Báo Tổ Quốc, Biển Đông “ phổ biến sâu rộng khắp hang cùng
ngõ hẹp trên trái đất.
Ðại hội VI (1986-1991) ngoài thành
tích đổi mới kinh tế theo định hướng XHCH để tạo thêm đặc quyền đặc lợi cho cán
bộ, bộ đội, công an và tư bản đỏ làm giàu thêm nhờ than nhũng và ăn cắp của
công. Tháng 7-1987 hội nghị trung ương đảng họp và ban hành nghị quyết số 2 cấm
‘ QUÂN ÐỘI NHÂN DÂN VN KHÔNG ÐƯỢC ÐỤNG CHẠM VỚI QUÂN TÀU ÐỎ ‘.Lệnh này được giữ
kín mãi tới ngày 28-1-1990 báo Nhân Dân mới đăng tải.
Tóm lại dù Tàu đỏ đã thẳng tay tàn
sát cũng như tàn phá đất nước VN trong trận chiến biên giới Việt-Hoa ngày
17-2-1979 và liên tiếp những năm sau đó. Tại Biển Ðông, TC cướp chiếm Hoàng Sa
và nhiều đảo khác thuộc quần đảo Trường Sa của VN qua trận hải chiến năm 1988.
Nhưng mai mĩa thay khi Lê Ðức Anh được cử làm bộ trưởng quốc phòng tại hội VI, đã đem ‘ quân đội nhân dân VC ‘ đầu
hàng Tàu đỏ, mặc dù lúc đó sự giao hảo giữa hai nước vẫn chưa thông. Anh còn
bắt xuạt bản cuốn từ điển Việt-Hoa để bộ đội ‘ cu’ học .
Bổn cũ tiếp tục soạn lại qua các lần
đại hội đảng kế tiếp với Manh, Lương, Khải, Triết rồi Trong, Sang, Dũng..Tất cả
đều theo đúng mẫu mã khuôn rập đã có sẳn từ thời Hồ Chí Minh của mấy chục năm
về trước ban truyền “ đời đời theo Tau và nhớ ơn thiên triều “dù Trung Cộng
ngày nay còn hung dữ gấp trăm lần Quốc xã Ðức, Phát xít Ý và Quân phiệt Nhật.,
vậy mà lúc nào cũng to mồm chưỏi Nhật.
Trong cơn sơn hà nguy biến, dân tộc
lâm nguy, đồng bào cả nước và hải ngoại ai nấy đều chung căm hận, quyết chờ cơ
hội thuận tiện để đồng đứng dậy lật đổ bọn ngụy quyền CSVN “ ác với dân nhưng
hèn với giặc “, , để đánh đuổi Tàu đỏ ra
khỏi Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Ðông, Biên Giới.. như tổ tiên ta ngày trước đã
từng làm. Vì VN không phải là một nước nhỏ, dân Việt không phải là loại người
khiếp hèn. Nhõ hay hèn trước giặc Tàu phương Bắc, chỉ có đảng CSVN còn 90 triệu
người Việt luôn khẳng định sức mạnh của mình, sẽ không bao giờ để cho Tàu đỏ
hung hăng bá quyền nước lớn. Ngày đó không xa và chắc chắn VN sẽ dành lại những
phần đất của tổ tiên, bị VC dâng bán cho Tàu đỏ suốt mấy chục năm qua, khi
chúng bị hầu hết nhân loại quyết tâm tiêu diệt vì lòng tham lam hung bạo và vô
nhân tính, qua ảo vọng làm chủ Biển Đông và siêu cường số 1 thế giới. ’
1-
Trung Cộng xâm lăng Việt-Nam lần thứ nhất (1979) :
Ngày 1-5-1975, VC ban hành một bản
đồ mới của nước VN thống nhất, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
(hiện do hải quân Bắc Việt chiếm giữ 6 đảo, khi VNCH bỏ ), mà chính Hồ Chí Minh
và Phạm Văn Ðồng đã giấy trắng mực đen, xác nhận thuộc chủ quyền của Trung Cộng
vào năm 1958. Ðây cũng là một nguyên cớ, để Tàu xâm lăng VN vào mùa xuân năm
1979. Thật ra tình hữu nghi giữa hai nước, đã lung lay từ năm 1967, khi Trung
Cộng xuí giục Nam Lào tấn công Pathet Lào, vốn là chư hàu của Bắc Việt. Rồi từ
khi Hồ Chí Minh qua đời năm 1969, quyền hành lọt vào tay Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ
vốn thân Nga, lúc đó là kẻ thù không đội trời chung của Trung Cộng, nên sự rạn
nứt của tình đồng chí lại càng thêm nứt rạn. Nhưng vì kẻ thù trước mặt là
Nga-Mỹ vẫn còn, vì vậy hai đảng cố quên bất đồng để hợp tác giai đoạn.
Nhưng tới khi Mao Trạch Ðông thăng
hà vào năm 1976, Ðặng Tiểu Bình lên nối ngôi, đã chấm dứt sự leo dây của VC từ
lâu, vì Ðặng đã biết rõ VC lúc ấy đang ngả hẳn theo Nga. Nhiều cuộc đụng độ đã
xảy ra tại biên giới Hoa-Việt, mà chủ động luôn luôn do Hồng quân gây hấn, theo
lệnh của Ðặng Tiểu Bình. Ðây là một đòn hù dọa cũng như áp lực VC lúc đó đang
tiến hành chính sách cải tạo công thương nghiệp, cướp của và đánh đuổi Hoa Kiều
Miền Nam, nhất là tại Sài Gòn-Chợ Lớn, ra biển, về Tàu.
Giữa lúc tình hữu nghi của hai nước
căng thẳng tột độ, thì Trung Cộng ngang nhiên xua 30.000 hồng quân vào các tỉnh
Luang Namtha, Udom Say, Phong Salay, Luang Prabang và Sầm Nứa, nói là để bảo vệ
công nhân Trung Hoa, đang làm thiết lộ Bắc Lào-Vân Nam. Nhưng thực chất Trung
Cộng muốn uy hiếp Pathet Lào và bao vây biên giới phía tây bắc của VN. Ðây cũng
là ý đồ của Tàu, muốn mở một con đường thông thương từ Vân Nam xuống đất Miên,
để tiện tiếp tế cho quân Khmer đỏ của Polpot lúc đó, đang du kích chiến với bộ
đội VN.
Nhưng Hà Nội đã biết rõ ý đồ của Bắc
Kinh, nên đã ra tay trước. Ðầu tiên là cùng Pathet Lào ký một hiệp ước quân sự
và biên giới ngày 18-7-1977. Sau đó đem 50.000 quân trấn đóng tại Trung và Nam
Lào, vừa bảo vệ Pathet Lào, cũng như ngăn cản không cho Trung Cộng vào đất
Miên. Sự gây hấn đã trở thành công khai vào năm 1978, khi Bắc Kinh gọi Hà Nội
là ‘ tiểu bá quyền khu vực ‘, còn VC thì bảo Trung Cộng là ‘ chủ nghĩa bành
trướng bá quyền Ðại Hán ‘.
Ai cũng biết quan hệ giữa hai đảng
cong sản Việt-Trung, vô cùng gắn bó từ sau năm 1949 khi Mao Trạch Ðông chiếm
được toàn cõi Hoa Lục. Từ đó, Trung Cộng hết lòng giúp đỡ VC mọi mặt, từ quân
sự cho tới kinh tế, chính trị, ngoại giao. Nhờ vậy Hồ Chí Minh và đảng cọng sản
mới chiếm được miền bắc vào năm 1954.
Trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ
2 (1960-1975), hầu như nguồn viện trợ quân sự, kinh tế cho Bắc Việt xâm lăng
VNCH, đều của Trung Cộng. Trên đất Bắc, Tàu giúp Hà Nội xây dựng nhiều công
trình nhà máy, đường xá.. Theo tài liệu công bố, tính tới năm 1978, Tàu đã viện
trợ cho VC hơn 20 tỷ mỷ kim. Từ năm 1965-1970, theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, đã
có hơn 100.000 quân Trung Cộng sang giúp Bắc Việt, để xây dựng và phòng thủ. Ðã
có cả ngàn lính Tàu chết ở VN trong cuộc chiến
Sau 1970, nhiều biến chuyển lịch sử
đã xảy ra, nhất là khi HCM chết, làm cho Hà Nội càng ngày càng ngả theo LX. Do
nhu cầu cuộc chiến, VC cần có nhiều quân dụng tối tân như Mig21, tăng 54,55,
hoả tiễn Sam.. để đối đầu với vũ khí Mỹ. Nhưng những thứ này chỉ có Nga mới có.
Trung Cộng biết hết, nhưng vẫn tiếp tục giúp đỡ VC cho tới khi Hà Nội chiếm
được miền Nam.
Rồi vì đầu óc thiển cận, các chóp bu
trong Bắc Bộ Phủ tự coi như các đỉnh cao của loài người, coi thường mạng sống
đồng bào cả nước, lại mù quáng chạy theo chủ thuyết cọng sản đã lỗi thời và
nhất là tôn sùng Liên Xô hơn thần thánh. Từ đó, không cần cảnh giác về những kẻ
thù xung quanh, lại mù quáng trở mặt và thách đó Trung Cộng. Ðó là nguyên nhân
chính khiến kẻ thù có cớ xâm lăng VN vào năm 1979.
Hồng quân Trung Hoa hay quân đội
Trung Cộng tuy được thành lập vào năm 1927 nhưng thật sự chỉ thống nhất sau năm
1949 khi chiếm được Hoa Lục. Nói chung VC đã theo đúng khuôn mẫu của Mao, để tổ
chức binh đội. Còn chủ thuyết Mao, được coi như nền tảng tư tưởng, dùng làm
chiến thuật và chiến lược, gọi là chiến tranh nhân dân, lấy nông thôn bao vây
thành thị.
Thời nào, quân đội Tàu cũng đông
nhất thế giới. Năm đó, Hồng quân có hơn 4 triệu người, bao gôm hai binh chủng
Hải và Không Quân trên nửa triệu. Cả nước được chia thành bảy quân khu : Lan
Châu (Tân Cương và Thanh Hải), Bắc Kinh (Nội Mông, Bắc Kinh, Hà Bắc, Sơn Tây),
Trấn Giang (Hắc Long Giang, Liêu Ninh), Kiến An (Hà Nam, Sơn Ðông), Nam kinh (Phúc
Kiên, Giang Tây, Thượng Hải, An Huy), Thành Ðô (Vân nam, Tứ Xuyên, Quý Châu,
Tây Tạng) và Quảng Châu (Quảng Ðông, Quảng Tây, Hồ Bắc, Hồ Nam). Mỗi quân khu
có nhiều quân đoàn. Ngoài chính quy và chủ lực, Trung Cộng còn có hơn bảy triệu
dân quân. Tất cả do Chủ tịch quân ủy trung ương , tức là chủ tịch đảng lãnh
đạo, khi Ðặng nắm quyền kiêm nhiệm luôn chức này.
Năm 1979, Hà Nội sau khi bị Trung
Cộng tố cáo là vong ơn bạc nghĩa, kể cả sự phanh phui Võ Nguyên Giáp không phải
là người chỉ huy mặt trận Ðiện Biên Phủ năm 1954. Ðể trà đũa, VC cho phổ biến
bạch thư, nói về quan hệ Việt-Trung trong 30 năm qua, đồng thời tố cáo Hoa Kiều
trong nước là gián điệp, tay sai của Trung Cộng chống lại VN. Tiếp theo VC xua
quân tấn công tiêu diệt Polpot và Khmer đỏ , vốn là đàn em chư hầu của Tàu,
khiên cho dầu được đổ thêm vào lửa chiến tranh giữa hai nước, chỉ chờ bùng nổ.
Tại miền Nam, ngày 24-3-1978 bắt đầu
đánh tư bản. Hằng ngàn công an, bộ đội và nam nữ thanh niên xung phong đeo băng
đỏ trên tay, rải khắp các đường phố Sài Gòn-Chợ Lớn, Gia Ðình, xông vào các
hãng xường, nhà buôn, tư gia.. những người có máu mặt Hoa lẫn Việt, để lục lọi,
vơ vết, xoi khám tịch thu tiền bạc, đô la, vàng ngọc, hàng hóa và tất cả tài
sản riêng tư của dân chúng, những ai bị đảng kết tội là mại sản. Theo tài liệu
được bật mí, chỉ riêng mẻ lưới trên, Hà Nội đã vơ vét của người giàu Sài Gòn,
Ngày 3-5-1978, cả nước lại được đổi
tiền lần thứ ba, khiến đồng bào trước sau trở thành vô sản chuyên chính. Ở miền
bắc, hằng ngàn Hoa Kiều bị trục xuất về nước. Trong nam, hằng vạn người Hoa
trắng tay, tiêu tan sản nghiệp, bì đầy ải lên vùng kinh tế mới tận Bình-Phước
Long, Bình Tuy, Long Khánh, Bà Rịa.
Ðể trả đũa, Trung Cộng ngưng hẳn 72
công trình xây dựng viện trợ cho VN. Ðã có 70.000 người Hoa tại VN hồi hương về
Hoa Lục. Ngày 16-5-1978, Trung Cộng tuyên bố gửi hai chiến hạm tới Hải Phòng và
Sài Gòn, để đón hết Hoa kiều. Nhưng đây chỉ là đòn tuyên truyền chính trị, vì
tàu chiến chỉ đậu ngoài khơi một ngày, rồi kéo neo về nước. Nắm được yếu điểm của
đàn anh, VC lần chót hốt hết những gì còn sót lại của Hoa Kiều, qua chiến dịch
‘ xuất cảng người ‘.Sau đó tống khứ họ ra khơi, khiến cho hơn triệu người bị
chết vì sóng gió và hải tặc Thái Lan trên biển Ðông, mà những trang Việt sử cận
đại, gọi là cơn hồng thủy của thế kỷ.
Sau khi VN bỏ lỡ cơ hội nối lại bang
gioa với Hoa Kỳ. Ngày 24-5-1978, phụ tá an ninh của tổng thống Mỹ Carter là
Brezinski, tới Bắc Kinh ký một hiệp ước liên minh quân sự với Tàu. Từ đó Ðặng
Tiểu Bình đã có chỗ dựa chống Nga, nên mới ra mặt quyết tâm xâm lăng VN để rửa
thù phục hận.
Từ 28 tới 30-1-1979, Carter và Ðặng
Tiểu Bình đã họp mật tại Tòa Bạch Ốc. Sau đó tổng thống Mỹ đồng ý để Trung Cộng
trừng phạt VN và còn giúp cầm chân Nga, bằng cách chịu ký với LX hiệp ứơc SALT
II. Ðể thêm kế nghi binh, Hoa Kỳ cử bộ trưởng tài chánh là Blumenthal tới công
tác tại Bắc Kinh. Ngoài ra còn cho Hàng không mẫu hạm Constellation lảng vảng
ngoài khơi vịnh Bắc Việt. Tất cả mơ mơ màng màng, khiến cho LX cũng không biết
đâu mà mò.
Ngày thứ bảy 17-2-1979, lúc 3 giờ 30
sáng, khi vạn vật, chim chóc và con người đang chuẩn bị cho một ngày sống mới,
thì 600.000 quân Tàu, tiền pháo hậu xung, ào ạt mở cuộc xâm lăng đại quy mô vào
VN, trên vùng biên giới từ Lai Châu tới Móng Cáy. Thế là tình nghĩa vô sản quốc
tế trong sáng giữa hai nước, đã trở thành hận thù thiên cổ. Những địa danh Cao
Bằng, Lạng Sơn, Ðồng Khê, Thất Khê.. lại đi vào những trang Việt sử đẫm máu,
của VN chống xâm lăng Tàu.
Ðể tấn công VN, Trung Cộng đã huy
động nhiều quân đoàn từ nhiều quân khu khác nhau, gồm QD 13,14 tấn công Lai
Châu-Lào Kay. Hai QÐ 41,42 tân công Cao Bằng. Riêng mạn Lạng Sơn, Quảng Yên,
Hải Ninh thi giao cho quân đoàn 43,54,55. Tất cả do Hứa Thế Hữu và Dương Ðắc
Chí chỉ huy trong mấy ngày đầu.
Về phía VN, một phần vì sự tự cao
bách thắng của các đỉnh cao tại bắc bộ phủ. Phần khác do quá tin tưởng sự liên
minh quân sự với LX. Nên gần như sử dụng gần hết các đơn vị chính quy tại mặt
trận Kampuchia. Bởi vậy ngay khi cuộc chiến bắt đầu, trong lúc quân Trung Cộng
đông đảo lên tới 150.000 chính quy, thì việc phòng thủ miền bắc, nhất là thủ đô
Hà Nội, được giao cho các Sư Ðoàn 308,312,390 của quân khu I. Nói chung, trong
cuộc chiến đấu với Trung Cộng tại biến giới, chỉ có các sư đoàn chủ lực của
quân khu tham dự như Sư đoàn 3,327, 337, Tây Sơn ( mặt trận Lạng Sơn). SD 567,
B46, SD.Pháo binh 66 (mặt trận Cao Bằng). Các tuyến từ Hà Giang tới Lai Châu,
do các SD316,345, Ðoàn B68, M63, các trung đoàn chủ lực tỉnh, huyện đội, công
an biên phòng. Sau đó khi thấy tình hình quá nguy ngập, Hà Nội mới gấp rút điều
động các trung đoàn từ các tỉnh trung châu, cùng với các sư đoàn chủ lực của
quân khu II và IV từ Kampuchia về tiếp viện.
Cuộc chiến thật đẫm máu ngay từ giờ
phút đầu. Quân Tàu dùng chiến thuật cổ điển thí quân với tiền pháo hậu xung,
bằng các loại hỏa tiễn 122 ly và đại bác nòng dài 130 ly, với nhịp độ tác xạ 1
giây, 1 trái đạn. Sau đó Hồng quân tràn qua biên giới như nước lũ từ trên cao
đổ xuống. Tuy nhiên khắp nơi, Trung Cộng đã gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của
VN, một phần nhờ địa thế phòng thủ hiểm trở, phần khác là sự yểm trợ hùng hậu
của pháo binh các loại, gây cho giặc Tàu nhiều tổn thất về nhân mạng tại Lạng
Sơn và Cao Bằng.
Sự thất bại trong những ngày đầu,
khiến Ðặng giao chỉ huy mặt trận cho Dương Ðắc Chí, đồng thời cũng thay đổi
chiến thuật, dùng tăng pháo mở đường và bộ binh tùng thiết. Do quân Tàu quá
đông, nên sau 10 ngày cầm cự, bốn thị xã Lai Châu, Lào Kay, Hà Giang, Cao Bằng
lần lượt bị thất thủ. Riêng tại thị xã Lạng Sơn, Trung Cộng tung vào chiến
trường tới sáu sư đoàn chính quy 127,129, 160,161, 163,164 cùng hằng trăm thiết
giáp và đại pháo từ khắp nới bắn vào yểm trợ. Phía VN có quân đoàn 14 gồm các
SD 3,327,338,347,337 và 308. Trong lúc đó hai SD chính quy 304 và 325 từ
Kampuchia, cũng đựợc không vận và di chuyển bằng xe lửa, tới Lạng Sơn tiếp
viện. Nhưng cuối cùng Lạng Sơn cũng bị thất thủ đêm 4-3-1979. Sau đó giặc Tàu
dùng mìn, bom phá nát hết các thành phố, thị xã tạm chiếm, kể cả hang Pắc Pó,
suối Lê Nin và núi Các-Mác mà Hồ Chí Minh từng tạm trú, trước khi về Hà Nội
cướp chính quyền vào tháng 9-1945. Ngày 16-3-1979, Ðặng Tiểu Bình ra lệnh rút
quân về nước.
Tóm lại sau 16 ngày giao tranh đẫm
máu, Trung Cộng cũng như Khmer đỏ, tàn phá tất cả tài sản của dân chúng, bắn
giết tận tuyệt người VN, san bằng các tỉnh biên giới, mà suốt cuộc chến Ðông
Dương lần II (1960-1975), gọi là vùng an toàn. Ðã có hằng trăm ngàn vừa dân vừa
lính của cả hai phía thương vong. Tại miền bắc, hằng triệu dân chúng phải phân
ly. Nhà cửa, vườn ruộng, của cải vật chất, đền đài, miếu võ, nhà thờ, di tích
tổ tiên bao đời để lại.. đều vì VC gây chiến tranh, mà tan tành theo cát bụi.
2-
Trung Cộng Xâm Lăng VN lần thứ hai (1984-1989) :
Cuộc chiến tưởng đâu đã chấm dứt, vì
VC dấu nhẹm tin tức, từ ấy cho đến năm 2006, nhờ mạng lưới Internet của Bộ Quốc
Phòng Trung Cộng (Defense-China.com) và tác phẩm Dữ kiện bí mật của cuộc chiến
tranh Trung-Việt (SEcret Records of Sino-Vietnamese War) của Jin Hui, Zhang Hui
Sheng và Zhang WEi Ming, cả thế giới biết được ‘ Bí Mật Lịch Sử về việc Tàu chiếm
Núi Ðất của VN, trong cuộc chiến biên giới lần hai (1984-1989) ‘.Theo tài liệu
dẫn chứng, năm 1984 Trung Cộng lại vin cớ CSVN thường pháo kích và tấn công
biên giới, nên bất thần tấn công cưởng chiếm Núi Ðất của VN tại tỉnh Hà Giang
(Thượng Du Bắc Phần), mở màn cho cuộc chiến Biên Giới Việt Hoa lần thứ hai, kéo
dài từ năm 1984-1989 mới chấm dứt, do Việt Cộng tự bỏ đất rút quân, nhượng bán
(?)lãnh thổ cho giặc Tàu.
Núi Ðất (VN) hay Lão Sơn (Tàu), dù
có gọi bằng cái tên gì chăng nữa, cũng vẫn là một ngọn núi của VN, tại xã Thanh
Thủy , huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Trong trận chiến đẳm máu này, hai bên đã
dành giựt quyền kiểm soát cứ điểm 1509m, được coi như là một vị trí chiến lược
rất quan trọng về phía VN, được cũng cố xây dựng từ sau cuộc chiến biên gới
1979.
Thế là ngày 28-4-1984, vào lúc 5 giờ
50 sáng, Trung đoàn 118, Sư đoàn 40 BB, thuộc Quân đoàn 14, Quân khu Côn Minh,
tiền pháo hậu xung, đồng loạt tấn công đỉnh 1509 và các cứ điểm quan trọng khác
của VN. Cuộc chiến thật gay go vì gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân phòng ngự
VN, cấp đại đội. Tất cả đã tử chiến trước quân thù, đặc biệt trong số này có 4
nữ cán binh CSVN, thà chịu chết trước súng phun lửa của giặc Tàu, chứ không đầu
hàng. Vì vậy nên trận chién kéo dài tới 15 giờ 30 chiều mới kết thúc, giặc bỏ
xác tại chỗ 198 tên, cùng một số khác bị thương nặng..
Này 11-6-1984 , một Tiểu đoàn CSVN
tấn công tái chiếm núi nhưng bị đẩy lui. Ngày 12-7-1984, hai bên đụng độ lớn
cấp Sừ đoàn. Phía CSVN đã huy động tới 6 Trung đoàn Bộ binh của các SÐ312,313,
316 và 356 để tái chiếm đỉnh núi. Cuối cùng Trung đoàn 982 thuộc Sư đoàn 313
CSVN, đã tái chiếm được cứ điểm 1509, sau khi đã chịu tổn thất hơn 3700 người.
Nhưng sau đó không biết vì lý do gì, chóp bu Hà Nội đã ra lệnh bỏ ngõ cứ điểm
trên cho quân Trung Cộng tới tái chiếm.Rồi lại giành giật từ 1984-1987 ở cấp
Ðại đội, cho tới ngày 13-2-1991 thì châm dứt với kết quả : Trung Cộng hoàn toàn
chiếm lĩnh Núi Ðất nằm trong lãnh thổ VN tại Tỉnh Hà Giang, và đổi lại tên Tàu
là Lão Sơn.
Tính ra, từ ngày Hồ Chí Minh và Ðảng
CSQT chiếm được nữa nước VN, qua Hội Nghị Genève 1954, sau đó cưởng chiếm Miền
Nam ngày 30-4-1975 và cai trị cả nước tới 2013, chỉ hơn nữa thế kỷ (1955-2007),
đã bán cho nhượng Tàu hai quần Ðảo Hoàng Sa-Trường Sa, nhiều đất đai tai biên
giới Hoa Việt, trong đó có Ải Nam Quan, Thac Bản Giốc, Hang Pắc Pó, Núi Ðất và
nhiều vùng đánh cá thuộc lãnh hải của VN. Tất cả hành động bán nước trên đều mờ
ám, bịp lừa, mục đích cũng chỉ để che dấu mọi tội lỗi, hầu tiếp tục kéo dài sự
thống trị của tập đoàn thực dân đỏ tham nhũng, bất tài nhưng trong tay nắm đủ
quyền lực, tiền bạc và trên hết đã sai khiến được một thiểu số trí thức khoa
bảng mù quáng hám danh, đang cố sức quậy bùn công cuộc chiến đấu quang phục đất
nước của Người Việt Tị Nạn Hải Ngoại và Ðồng bào quốc nội.
Sau khi cưởng chiếm đuợc cả nước VN,
CSQT bỏ Tàu theo Nga, gây nên một cuộc chiến long trời lở đất với Miên và Trung
Cộng, cuối cùng cắt đất dâng biển đảo của VN cho Tàu để xin được làm tôi tớ của
thiên triều như cũ. Bài học của lịch sử chưa khô máu trên thân thể mẹ VN nhược
tiểu , thì một cuộc chiến đẳm máu khác đã thấy ló dạng, qua cuộc cờ ‘ tranh giành biển
Đông “ trong đó VN vẫn là nạn nhân chính của giặc Tàu xâm lược.
Lần trước Trung Cộng chỉ mới tàn phá
được miền thượng du Bắc Việt bằng súng đạn cổ điển. Lần này nếu lại có chiến
tranh, Trung Cộng với bản chất dã man và khát máu, chắc chắn giặc sẽ tận dụng
hết khả năng quân sự trong đó có bom nguyên tử để xoa sổ VN trên bản đồ Châu Á.
Sự tổn thất về nhân mạng và tồn vong của dân tộc chỉ có người dân cùng đất nước
hứng chịu, còn đảng với gia đình chắc chắn đã cao bay xa chạy tới những khung
trời hạnh phúc ở hải ngoại mà thiên đướng đâu có nơi nào sánh bằng Hoa Kỳ với
tiền núi vàng tấn đã được chuyển tới đây từ khuya.-/-
TÀI LIỆU THAM KHẢO
:
- Brother Ennemy của
Nayan Chanda do Phạm Quốc Bảo dịch.
- Giọt nươc trong
biển cả Hoàng Văn Hoan
- Mặt thật của Thành
Tín
- Chinese aggression
against VietNam
- Death in The Rice
Field của Peter Scholl Latour
- Sau bức màn đỏ của
Hoàng Dung.
- Tài liệu ‘ Trận
Biên giới Hoa Việt lần 2’ trên Diễn Ðàn Việt Nam Exodus..
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 2-2015
MƯỜNG GIANG
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen