08.11.2015
Trước đây, nhiều người cho rằng trong chính sách đối
ngoại, Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng CS Việt Nam chia làm 2
nhóm, 1 nhóm giáo điều bảo thủ gắn bó với bành trướng Trung Quốc và 1 nhóm cấp
tiến muốn xáp lại gần Hoa Kỳ và các nước dân chủ phương Tây.
Nhiều đảng viên cấp cao cũng tin ở sự phân hóa đó, kể
cả nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quan hệ quốc tế của Bộ Ngoại giao. Ở nước
ngoài, nhà nghiên cứu Ngô Vĩnh Long ở Hoa Kỳ và luật sư Lý Tường Quang ở Úc cũng
chung một nhận xét, và hy vọng nhóm cấp tiến sẽ áp đảo nhóm giáo điều. Anh bạn
tôi giáo sư Jonathan London ở Đại học Hồng kông cũng có cách nhìn lạc quan như
vậy.
Ông Tập Cận bình và vợ cùng một đoàn tùy tùng lớn đã
đến Hà Nội trong cuộc đi thăm cấp Nhà nước. Thảm đỏ được trải ra, 21 phát súng
đại bác gầm lên, những bắt tay chặt chẽ, đại tiệc mở ra với sơn hào hải vị.
Người cầm đầu thế lực bành trướng, - kẻ vừa mới khẳng định tháng trước Hoàng Sa
Trường Sa là thuộc lãnh thổ, chủ quyền không thể tranh cải của TQ từ thời cổ
đại, được long trọng mời nói chuyện trước Quốc hội, trong đó 90% là đảng viên
CS, 1 phần 3 là ủy viên Ban chấp hành TƯ đảng. Lời nói của chủ và khách không
được truyền trực tiếp, cũng là điều cũng chưa từng có, vì họ còn biết sợ công
luận, để còn tự kiểm duyệt đã.
Tất cả im thin thít, nghe ông Tập hiểu dụ theo lập
trường bành trướng : chung chế độ, chung con đường phát triển xã hội chủ nghĩa,
gác lại quá khứ, hướng tớitương lai, trọng đại cục, gác tiểu tiết, cùng giải
quyết tốt các bất đồng, thảo luận song phương… Ông ta không hề đả động đến Hoàng
Sa, Trường Sa, đến cuộc chiến tranh biên giới, với hành vi binh lính Tàu tàn sát
20 vạn đồng bào ta thuộc 6 tỉnh biên giới, phần lớn là nhân dân, người già, con
trẻ sơ tán trong rừng…
Cả Quốc hội đứng dậy vỗ tay dài hoan nghênh lời huấn
thị. Không một ai dám ngủ gật như thường thấy; không một ai dám có một cử chỉ
không đồng tình; không một đại biểu nào dám đứng dậy đi ra ngoài để tỏ thái độ,
như thường thấy ở quốc hội các nước dân chủ khi bản thân không đồng
tình.
Tất cả các chuyện trên nói lên điều gì? Trước hết là
toàn thể lãnh đạo đảng CS Việt Nam, từ 16 ủy viên Bộ Chính trị, hơn 200 ủy viên
TƯ, đến hơn 500 đại biểu Quốc hội (thực chất là Đảng hội) đều một lòng quy phục
bọn bành trướng. Cả 4 ông tứ trụ đua nhau tỏ thái độ hân hoan chào mừng «khách
quý», không một lời nhắc đến Hoàng Sa, Trường Sa, đến giàn khoan tàu Hải Dương
981, đến các vụ ngư dân ta bị phía TQ ngăn chặn, hành hung, tra tấn, giết hại
ngay trong vùng biển Việt Nam.
Như thường lệ, phía Trung Quốc mở hầu bao viện trợ
cho Việt Nam 1 tỷ Nhân dân tệ trong 5 năm, còn cho vay 250 triệu USD cho đường
sắt; chẳng là bao khi hơn 6 Nhân dân tệ mới bằng 1 đôla, trong khi trong 9 tháng
qua, họ đã thu lợi trong giao thương chênh lệch 2 chiều đến hơn 24 tỷ USD, rõ
ràng là thả con săn sắt bắt con cá rô to đùng. Thế là mọi sự đã rõ. Đoàn TQ sang
Việt Nam lần này chỉ có một mục đích chiến lược là chiêu dụ lãnh đạo Việt Nam,
triệt để phá thế cờ «Thoát Trung và xích lại gần Tây Phương» đang có nguy cơ xảy
ra, khi đang có sức ép khá mạnh trong giới trí thức, tuổi trẻ và toàn dân Việt
Nam đòi lãnh đạo Việt Nam phải tận dụng thời cơ để xoay trục, đưa đất nước đi
vào hướng dân chủ thật sự, hân hoan đón nhận sự mời gọi của các nước dân chủ,
giàu mạnh, văn minh của thời đại.
Thế là mặt nạ của lãnh đạo CS Việt Nam đã tự rơi
xuống. Họ chung một duộc, có những nhóm đối lập nhau, kèn cựa nhau để tranh ăn,
nhưng về đối ngoại thì họ đồng lòng nhất trí chung một ông chủ, nhất quán theo
con đường Bắc thuộc, mở ra từ tháng 9/1990 tại Thành Đô, qua 5 đời tổng bí thư:
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, chuyền
cho nhau sự phản bội dân tộc Thành Đô, không mảy may thay đổi đến một ly suốt 25
năm ròng.
Mọi sự càng rõ thêm, đó là trong Bộ Chính trị có
những ý kiến khác nhau, có người tỏ rõ lập trường giáo điều, bảo thủ, có người
giả nói nhiều đến chủ quyền, dân tộc, đến dân chủ, pháp quyền, đến mối quan hệ
« hữu nghị viển vông », « hòa bình mơ hồ »…chỉ là phân vai đóng kịch vừa tung
hỏa mù lừa dân ta, vừa bịp thế giới để hòng thủ lợi từ mọi bên.
Thế là chuyến đi của Tập Cận bình là một phép thử
nghiệt ngã. Vì sao Tập đòi sang Việt Nam khẩn cấp ngay trong năm 2015 này, nhất
định vượt lên trước Tổng thống Barack Obama, e rằng chậm chân sẽ hỏng chuyện,
trong khi tình hình trong nước của TQ là bi đát chưa từng có. Kinh tế bế tắc,
chứng khoán rơi tự do, đồng Nhân dân tệ mất giá từng ngày, quỹ dự trữ ngoại tệ
tuy lớn nhưng teo lại nhanh (có tuần lễ giảm 200 tỷ USD, có tháng giảm 860 tỷ).
Tây Tạng, Tân Cương bất ổn lớn. Hồng Kông nổi lên xa rời lục địa qua «Phong trào
ô dù» bất khuất, đòi dân chủ. Ở Đài Loan, Quốc dân đảng theo Bắc Kinh bị thua
đau qua bầu cử, nhân vật thân Bắc Kinh Mã Anh Cửu bị mất ghế chủ tịch Quốc dân
đảng.
Thế là mọi sự đã rõ. Lãnh đạo đảng CS Việt Nam đã bỏ
ngoài tai những tuyên bố, khuyến nghị, can ngăn của trí thức yêu nước, đòi hỏi
phải đứng vững trên lập trường dân tộc mà bình tĩnh, ôn hòa nói thẳng cho đoàn
TQ rõ rằng chúng tôi khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Việt Nam từ xa xưa,
ít ra phải nói dù một lần câu nói đó trước mặt người lãnh đạo số một của TQ xem
ông ta trả lời ra sao. Nhưng họ đã im lặng, đã tỏ ra hoàn toàn bạc nhược, quy
hàng nhục nhã khi rước kẻ cướp vào nhà, còn tiếp đón linh đình chúng, không dám
thốt lên một lời chính nghĩa, lại còn đàn áp làm đổ máu các chiến sỹ yêu nước ở
Hà Nội, Sài Gòn, Nha Trang.
Đại Hội đảng CS XII thế là đã rõ, phải theo gậy chỉ
huy của họ Tập, không cụ cựa nhúc nhích gì được.
Bỏ qua thời cơ lớn để kết bạn bền lâu với thế giới
dân chủ đang ngăn chặn rất có hiệu quả sự trỗi dậy hung hãn của TQ, bao giờ Việt
Nam mới có lại một dịp tốt như vậy ? Hoa Kỳ đã làm hết sức mình, còn rộng lòng
đón Nguyễn Phú Trọng vào Tòa Bạch Ốc để thuyết phục. Chưa bao giờ có nhiều quan
chức cấp cao Mỹ đến Việt Nam như mấy tháng qua, nào bộ trưởng ngoại giao, bộ
trưởng quốc phòng, cố vấn an ninh, dân biểu, thượng nghị sỹ… để lôi kéo, thuyết
phục, còn rộng rãi để Việt Nam gia nhập TPP, nhưng tất cả đã uổng công vô ích.
Do đó Tổng thống Obama đã quyết định hoãn không thời hạn cuộc đến thăm Việt Nam,
hiểu rằng có đến sớm cũng chỉ mất công vô ích và vô duyên. Hoa Kỳ vẫn sẽ cho tàu
đến vùng biển Đông định kỳ 3 tháng 2 lần, chỉ là vì tự do thông thương quốc tế,
như ở bất kỳ vùng biển quốc tế nào.
Trước hiểm họa mất nước, thì chúng ta nên làm gì?
Chẳng lẽ cam tâm cúi đầu chịu đựng? Không thể thế được. Biện pháp duy nhất trước
tình hình khẩn cấp đặc biệt của đất nước là các trí thức, luật sư, nhà báo, học
giả, nhà hoạt động xã hội… có uy tín hãy chung sức lập ra một Tòa án Lương tâm
Đặc biệt để xét xử Nghi án Phản quốc, với những nghi phạm là Bộ Chính trị, các
tổng bí thư 5 khóa liên tiếp sau sự kiện Thành Đô, yêu cầu các nhân vật liên
quan trực tiếp này phải lên tiếng trình bày rõ cho công luận xã hội họ đã liên
quan ra sao. Những nghi phạm cốt lõi còn sống là Đỗ Mười, nguyên thủ tướng rồi
tổng bí thư; Lê Đức Anh, nguyên chủ tịch nước; và Nguyễn Chí Vịnh, nguyên cán bộ
lãnh đạo Tổng Cục II – An ninh. Nếu họ không chịu lên tiếng trình bày theo yêu
cầu của Tòa án Lương tâm Đặc biệt, Hội đồng xét xử có thể dựa trên 2 bằng chứng
có giá trị là bản hồi ký của nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn cơ Thạch, bản
hồi ký dài Nhớ lại và suy nghĩ của nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Trần
Quang Cơ để biện luận. Cơ sở luận tội là Hiến pháp, pháp luật hiện hành và công
pháp quốc tế.
Những nhân chứng còn sống có thể nhiều, như nguyên
Đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh; nguyên Đại tá Công an Nguyễn Đăng Quang; nguyên Trung
tá Vũ Minh Trí thuộc Tổng cục II; tướng Lê Duy Mật, nguyên tư lệnh mặt trận Lão
Sơn; nguyên Lãnh sự Dương Danh Di ; nhà ngoại giao Đặng Xương Hùng hiện sống ở
Thụy Sỹ; cùng các chiến sỹ, sỹ quan cựu binh miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa từng
tham gia các trận chiến Hoàng Sa, Trường Sa, và một số đảng viên CS phản
tỉnh.
Dựa trên kết luận Luận tội, nhân dân Việt Nam có
quyền tuyên bố Mật ước Thành Đô là vô giá trị, vì tiến hành sau chiến tranh khốc
liệt, dưới sự hăm dọa và áp lực trong sào huyệt bành trướng, mờ ám sau lưng nhân
dân 2 nước, chưa hề được quốc hội 2 nước thông qua.
Tuy là tòa án lương tâm của công luận xã hội, không
có giá trị cưỡng chế thi hành như vụ xét xử Laval và Pétain năm 1945 ở Pháp,
nhưng vẫn có giá trị dựa trên nguyên lý «Toàn bộ quyền lực thuộc về xã hội, về
toàn dân», nên bản án và kết luận của Tòa án Lương tâm Đặc biệt rất có tác dụng
trên mặt trận truyền thông và công luận, có giá trị răn đe lớn những kẻ phản dân
hại nước, có tội với tiên tổ, hiện tại và các thế hệ mai sau.
Rất mong ý kiến này được bà con trong và ngoài nước
trao đổi rộng rãi thêm.
Phải chăng đây là biện pháp đấu tranh dư luận thực
tiễn, trong tầm tay, có thể làm sáng tỏ tình hình, bồi dưỡng lòng yêu nước, nâng
cao chí khí đấu tranh, chuyển nỗi sợ cường quyền của nhân dân thành nỗi sợ chính
nghĩa của nhóm cầm quyền bán nước tham nhũng, mở ra con đường sống Tự do, Dân
chủ và Hạnh phúc cho toàn dân Việt.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen