Sơn Tùng
Trong dịp “Ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới” (World
Press Freedom Day) 3 tháng 5 năm nay, tại thủ đô Washington người Mỹ có vẻ
quan tâm đến vấn đề không có tự do báo chí tại Việt Nam ở bên kia nửa vòng trái
đất, một việc không có gì mới lạ với mọi người.
Trước hết là buổi điều trần tại Hạ Viện Hoa
Kỳ ngày 29.4 của một nhóm sáu người từ Việt Nam sang, hình như với sự bảo trợ của
Dân biểu Loretta Sanchez (Dân chủ- CA) và cũng là người điều hợp cuộc họp. Sáu
người từ Việt Nam sang là các ông Nguyễn Tường Thụy, Tô Oanh, Lê Thanh Tùng,
Ngô Nhật Đăng, Nguyễn Đình Hà, và bà Nguyễn Thị Kim Chi. Ba người khác cũng được
mời nhưng không được phép xuất
cảnh sang Mỹ và những lời phát biểu của họ đã được phát lên qua video clip
thu trước (gồm các ông Nguyễn Lân Thắng, Phạm Chí Dũng,
và cô Anna Huyền Trang). Trừ
bà Kim Chi là một diễn viên, những người khác đều là các bloggers, những
người viết báo ngoài sự kiểm soát của chính quyền Hà-nội.
Ngoài những người
từ Việt Nam sang, buổi điều trần còn có ba người ở Mỹ là ông Đỗ Hoàng Điềm (Đảng
Việt Tân), ông Bob Dietz (CPJ, Committee
to Protect Journalists), và bà Libby Liu (RFA, Đài Á Châu Tự Do).
Hai ngày sau, 1 tháng 5, một cuộc
hội thảo khác lại được tổ chức tại Đài Á Châu Tự Do ở Washington, DC. , cũng với
thành phần tham dự như trên, nhưng có thêm ông Jox Fox (thuộc tổ chức ACCESS)
và bà Meredith Whittaker (thuộc công ty Google).
Qua hai cuộc họp này, thực trạng
“độc quyền thông tin” của Nhà nước CSVN được các tham dự viên từ Việt Nam tới
tường trình như sau:
-
Báo
chí do nhà nước kiểm soát chặt chẽ. Viết blog bị coi như là viết báo bất
hợp pháp. Việt Nam hiện có khoảng 1,000 tờ báo kể cả báo ảnh, báo nói, tv,
radio, v.v...
-
Mấy
trăm tờ báo chỉ có 1 tổng biên tập vì gửi bài thì có biên tập báo xét, rồi tổng
biên tập của báo xét lại, rồi có Ban Tuyên Giáo triệu tập các tổng biên tập để
dặn dò kiểm duyệt. Vì sự tự kiểm duyệt, và định hướng từ trên xuống cho nên mọi
nội dung các báo chí đều giống nhau, và không dám đụng đến các đề tài nhạy cảm...
-
Nhờ có internet nên có báo mạng, tuy chưa
nhiều nhưng những người bất đồng chính kiến đã dùng nó để lên tiếng, và là tiếng
nói đáng kể. Đa số tập trung vào các việc: phản ảnh sự thật ở VN, phanh phui những
điều gì báo nhà nước giấu kín. Báo mạng truyền bá tư tưởng
tự do dân chủ và những tư tưởng tiến bộ. Vì vậy báo mạng là một lực lượng thúc
đẩy xã hội đáng kể. Các bloggers phải trả cái giá cho những nỗ lực đó.
Những người bị tù vì viết blog là Điếu Cày, Phạm Viết Đào, Trương Duy Nhất và
nhiều người khác bị xách nhiễu, đe dọa, vv.
-
Nghị quyết 72 kiểm soát Internet, bao gồm 2 điểm nổi bật. 1) chia sẻ
thông tin, đường dẫn bị cấm nếu không đúng ý nhà nước; 2) trói buộc các công ty
internet tại VN hay từ ngoại quốc muốn đầu tư vào VN. Họ phải cung cấp thông
tin về khách hàng nếu có yêu cầu của chính phủ. Phải đặt máy chủ tại VN. Phải
thực hiện các quy định kiểm duyệt, kiểm soát thông tin.... Về mặt kỹ thuật, nhà
nước dùng các phương thức: lập lực lượng dư luận viên, làm chậm đường truyền, tấn
công trang mạng. Thêm vào đó bắt bớ, xử tù những ai lên tiếng trên mạng..
-
Một số bloggers bị tù và gia đình bị xách nhiễu như Điếu Cày, Tạ
Phong Tần, Paulus Lê Sơn, Lê Quốc Quân... Trong khi họ bị án tù thì gia đình bị
xách nhiễu. Như trường hợp mẹ của Tạ Phong Tần tự thiêu. Paulus Lê Sơn, mẹ buồn
sinh bệnh qua đời mà Lê Sơn không được thông báo gì cả. Nhà cầm quyền ngăn trở
không cho gia đình đi thăm viếng tù nhân. Thay vì giam ở miền Nam, họ cố tình
đem ra miền Bắc để gia đình khó đi gặp. Các tù nhân bloggers cũng bị đối
xử bất công trong tù. Như trong lúc các tù nhân khác được tắm trong nhà thì chị
Tạ Phong Tần bị bắt phải tắm ngoài trời rất lạnh. Anh Điếu cày phải tuyệt thực
nhiều ngày để phản đối sự đối xử bất công. Còn lại là những bloggers, ký
giả khác cũng bị xách nhiễu nặng nề. Như trường hợp blogger Nguyễn Tường
Thụy, công an nhào vô nhà đánh đập và bắt nhiều người bạn của ông đi. Trong số
đó có mẹ con Phương Uyên...
Những điều trên đây không có gì mới lạ, hầu như ai quan tâm
đến vấn đề nhân quyền tại Việt Nam đều đã biết rõ. Những người chủ trương
và tổ chức các cuộc họp nói trên lại càng biết rõ hơn ai.
Vậy thì mục đích của các cuộc điều trần và hội thảo này là
gì? Vận động sự quan tâm của dư luận nước Mỹ? Hay muốn “kiến nghị” Quốc Hội Hoa
Kỳ áp đặt các biện pháp chế tài Hà-nội như liên kết quyền tự do báo chí với quyền
lợi kinh tế dành cho Việt Nam (hay có thể nói là chính sách củ cà-rốt và cây gậy)
như các hội thảo viên đã cho biết?
Qua lịch sử và kinh nghiệm của những người đã sống dưới các
chế độ cộng sản, không ai nên mong đợi một chế độ cộng sản sẽ nhượng bộ dưới áp
lực này nọ để nới tay ban phát cho người dân bất cứ một quyền tự do nào, dù là
tôn giáo, chính trị, hay báo chí. Để có thể tồn tại, cộng sản phải tiêu diệt mọi
quyền tự do của người dân. Một khi nó bắt buộc phải nới lỏng sự đàn áp để chấp
nhận cho người dân có một phần tự do nào đó, nó đã tự mở cánh cửa của tử thần.
Nếu một chế độ cộng sản có thể sửa đổi để mang một bộ mặt
nhân bản thì các chế độ cộng sản ở Đông Âu và Liên-Sô đã không sụp đổ 25 năm
trước.
Cộng sản Việt Nam đã học được bài học ấy, nên càng biết rõ
phải làm gì để kéo dài sự sống. Thật ra, từ khi mở ra con đường “đổi mới” (về
kinh tế) vào giữa thập niên 1980 để tránh sụp đổ, chế độ độc tài ở Việt Nam
không còn phải là cộng sản nữa nhưng vẫn phải bám lấy cái bảng hiệu “Mác-Lênin”
để khỏi tan rã, trong lúc vẫn phải duy trì “bạo lực cách mạng của chuyên chính vô sản” để dập tắt tất cả mầm mống đối lập sẽ đưa tới sụp đổ không thể
tránh.
Nhưng ngày nay, với thời đại truyền thông điện tử, màn sắt
màn tre đã trở thành vô hiệu. Chế độ độc tài cổ lỗ “tự gọi là cộng sản” tại Việt
Nam đang lúng túng đối phó với “mặt trận internet” ngày một lan rộng
nhưng không một dấu hiệu nào cho thấy có sự nới lỏng đàn áp những người muốn tự
do.
Thấy những người đối kháng tại Việt Nam được cho đi Mỹ, ta
không nên lầm lẫn mà nghĩ rằng vấn đề nhân quyền của người dân Việt Nam đã có
“tiến bộ”, hay “cải thiện”. Hãy nhìn những người dám đứng lên để đòi hỏi tự do
tại Việt Nam đã và đang bị đàn áp thô bạo ra sao.
Bạo quyền Hà-nội cho phép vài người đối kháng ra khỏi nước
có hai cái lợi: một là tạo ra ảo tưởng tình trạng nhân quyền tại Việt Nam đã được
cải thiện, hai là tống xuất được một phần những “cái gai” ra khỏi nước để họ tự đốt cháy, vì một “chiến sĩ dân
chủ” mà ra khỏi nước không khác nào một người lính rời bỏ chiến trường trước
kia, khi còn chiến tranh súng đạn. Đào ngũ.
Con đường đi tới tự do tại Việt Nam
còn nhiều gian nan, khổ đau, mất mát không thể tránh. Tự do không phải là món
quà xin-cho mà cũng không thể đòi hỏi từ xa. Đó là kết quả vinh quang của sự
kiên trì tranh đấu và chấp nhận hy sinh của một dân tộc xứng đáng được hưởng.
Người Mỹ sẽ không làm được gì nhiều
cho tự do báo chí tại Việt Nam, ngoài những cuộc điều trần, hội thảo... như đã
diễn ra từ nhiều năm nay.
Sơn Tùng
Virginia, 06.5.2014
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen