Những
mảnh tường của Bức tường Berlin được trưng bày để bán tại thành phố
Teltow, gần Berlin, Đức, vào dịp kỷ niệm 24 năm bức tường này sụp đổ.
Andre DeNesnera
29.10.2014
WASHINGTON—
Ngày 9 tháng 11 đánh dấu 25 năm ngày bức tường Berlin sụp đổ.
Các sử gia nói trong các thập niên 1960 và 1970, Tây Đức đã phát triển một nền kinh tế vững
mạnh, và Tây Berlin chia sẻ sự thịnh vượng đó.
Ông Frederick Taylor, một chuyên gia về Bức tường Berlin, tác giả cuốn The Berlin Wall – A World Divided 1961-1989 – tạm dịch là Bức tường Berlin – Một Thế giới chia cách 1961-1989, nói rằng Đông Đức cũng có một hình thức tiến bộ kinh tế nào đó, tuy không ở mức ngang với Tây Đức.
Ông
Taylor nói: “Trong thời gian từ 1961 đến khoảng 1973-74, tiêu chuẩn
sinh hoạt và sự sẵn có của hàng hóa tiêu thụ bên trong Đông Đức được cải
thiện rất nhiều. Có máy giặt, máy truyền hình, thậm chí cả xe hơi – có
thể phải đợi 5 năm mới mua được một chiếc, nhưng tôi nghĩ vào năm 1961,
chỉ có ba phần trăm người
Đông Đức có được xe hơi, và đến 1975 thì tỷ lệ đó là 15 phần trăm.
Không phải là nước Mỹ, nhưng cũng rất tốt so với tình trạng trước đó.
Vấn đề là tất cả là nhờ vào dầu và nguyên liệu do Nga trợ cấp.”
Vào
giữa thập niên 1970 diễn ra vụ chấn động về dầu hỏa ở Trung Đông, đẩy
mạnh giá dầu. Các khoản trợ cấp của Liên bang Xô viết bị cắt và theo ông
Taylor, giới lãnh đạo Đông Đức không còn có khả năng cung cấp cho công
dân hàng tiêu thụ nữa.
Ông
Taylor nói: “Hoa quả và rau cỏ nhập khẩu chẳng hạn, bắt đầu biến mất
khỏi các quầy hàng. Chỉ là những thứ lặt vặt – như không có đủ hắc ín để
rải đường, nên đường càng ngày càng xấu. Lúc đầu đã khá
xấu, nhưng còn tệ hơn nữa vào thập niên 1970 và bước vào thập niên
1980. Các tòa nhà không được sửa chữa. Mọi thứ không được nhập – các mặt
hàng xa xỉ vân vân – chỉ có được nếu có những khoản ngoại tệ lớn, tiền
có giá, cụ thể là đôla Mỹ hay đồng Mark của Đức chẳng hạn.”
Ông
Taylor và những người khác nói cho đến khi ông Ronald Reagan lên làm
tổng thống năm 1980, quân đội, nhưng nhất là sự yếu kém về kinh tế của
Đông Âu và toàn bộ khối Xô viết đã trở nên rõ ràng.
(Ảnh
tư liệu) Tổng thống Mỹ Ronald Reagan (phải) và nhà lãnh đạo Liên bang
Xô viết Mikhail Gorbachev ký Hiệp ước Các lực lượng Hạt nhân tầm trung
(INF) tại Tòa Bạch Ốc, 8/12/1987.
Các
nhà phân tích nói một người cảm thấy sự yếu kém này và biết rằng chế độ
cộng sản phải thay đổi là ông Mikhail Gorbachev, người đã trở thành nhà
lãnh đạo liên bang Xô viết vào tháng 3 năm 1985.
Ông Serge Schmemann là một cựu thông tín viên ở Moscow và Bonn của tờ New York Times, nêu nhận xét:
“Một
khi ông Gorbachev đề xuất chính sách đổi mới glasnost, một khi ông nới
lỏng những dây trói, là tất cả các nước Đông Âu bắt đầu cảm nhận một
hình thức phong trào hoặc bên trong các đảng cộng sản hoặc từ bên dưới
lên – một sự cởi lỏng.”
Tại
Đông Âu, sự độc quyền của các đảng cộng sản, được Liên bang Xô viết hỗ
trợ từ mấy chục năm, đang trên đường bị phá huỷ. Ba Lan và Hungary dẫn
đầu.
Các chuyên gia phân
tích nói năm 1989 là một năm quyết định. Sử gia Frederick Taylor nói một
quyết định của ông Gorbachev đã có hậu quả tức thời cho Đông Âu – nhất
là Đông Đức.
Ông Taylor kể:
“Điểm thực sự cấp thiết
vào năm 1989 xuất hiện vào mùa hè khi mọi sự rõ ra là ông Gorbachev,
nhà lãnh đạo cải cách mới ở Liên bang Xô viết không sẵn sàng sử dụng
Hồng Quân để đàn áp giới bất đồng, đàn áp các cuộc biểu tình, đàn áp sức
ép đòi cải cách ở bên trong Đông Đức. Và giờ khắc mà theo một cách nào
đó, ông ấy rút đi một phần tư triệu ngọn mác đã giữ vững toàn bộ nước
cộng sản Đông Đức, cũng chính là lúc bức tường trở nên vô vọng.”
Ông
Gorbachev thực sự đã bác bỏ chủ thuyết Brezhnev nói rằng nếu bất cứ
nước nào tìm cách tách ra khỏi sự kiểm soát của Xô viết, thì Moscow có
thể dùng vũ lực can thiệp như vào năm 1956 ở Hungary, và năm 1968 ở Tiệp
Khắc.
Các chuyên gia phân
tích nói một khi ông Gorbachev có quyết định đó, các diễn biến ở Đông Âu và nhất là ở Đông Đức tăng hẳn nhịp độ.
Ông Taylor nói vào tháng 8, chính phủ Hungary đã có quyết định quan trọng là mở cửa biên giới với nước Áo.
Ông
Taylor kể: “Điều này có nghĩa là thực ra, lần đầu tiên từ gần 30 năm,
người dân Đông Đức có thể ra khỏi nước để sang một nước bạn cộng sản, đó
là Hungary – và bước vào một nước tư bản là nước Áo, rồi từ đó đi bất
cứ nơi nào họ thích: đi Munich, Miami, Montevideo – bất cứ nơi nào họ
muốn. Và sau đó những người còn ở lại Đông Đức đã biểu tình đòi cải
cách, đòi được phép đi lại một cách dễ dàng và hợp pháp, đòi chấm dứt
những cuộc bầu cử gian lận, đòi cải thiện kinh tế.”
Nhà
sử học nói các cuộc biểu tình tăng lên khắp Đông Đức trong các tháng 9
và tháng 10 năm 1989. Các cuộc biểu tình đó ôn hoà. Các cuộc biểu tình
lớn nhất diễn ra ở thành phố Leipzig.
Ông
Taylor nói vào đầu tháng 10, một cuộc tập hợp ồ ạt được tổ chức ở thành
phố ấy. Các binh sĩ dù tinh nhuệ sẵn sàng chờ lệnh. Họ được phép sử
dụng đạn thật nếu cần. Ông Taylor nói người đứng đầu đảng Cộng sản Đông
Đức là ông Erich Honecker cùng các nhà lãnh đạo khác xem cuộc biểu tình
trên đài truyền hình.
Ông
Taylor nhắc lại: “Họ phải quyết định phải làm gì. Và đây là điểm then
chốt mà ông Honecker, một người theo chủ trương cứng rắn cũ, vẫn còn
lẩm bẩm, ‘ta phải có biện pháp nào đó. Ta phải đưa tất cả những tay cảnh
sát này và đám binh sĩ này tới, mà chúng ta lại không làm gì cả.’ Và
ông đã quay ra nói với vị tướng lãnh quân đội trong phòng. Và vị tướng
lãnh quân đội nói ‘Tôi sẽ không làm điều đó. Tôi sẽ không ra lệnh ấy.’
Và đó chính là lúc – thời điểm đó và việc ông Gorbachev không muốn sử
dụng Hồng quân. Và rõ ràng là không thể ngăn được các cuộc biểu tình
bằng vũ lực. Có thể nói sẽ không giống như Quảng trường Thiên An Môn.
Phải lưu ý rằng Bộ chính trị của đảng Cộng sản Đông Đức là một trong số
ít các nước Đông Âu đến năm 1989 đã gửi lời chúc mừng ban chấp hành
trung ương đảng
Cộng sản Trung Quốc sau vụ đàn áp Thiên An Môn hồi tháng 6 năm 1989.”
Trong
vòng vài tuần lễ, ông Erich Honecker đã ra đi. Ban lãnh đạo mới chuẩn
bị các quy định cập nhật cho việc du hành ra nước ngoài.
Một
cảnh vệ Tây Berlin đứng trước bức tường bê tông chia cắt Đông và Tây
Berlin ở Bernauer Strasse, trong khi các công nhân Đông Berlin chất các
khối gạch lên bức tường để xây cao bức tường chắn này, 7/10/1961.
Tại
một cuộc họp báo ngày 9 tháng 11 ở Đông Berlin, ông Guenter Schabowski,
một thành viên của Bộ chính trị cầm quyền Đông Đức, tuyên bố du hành tư
nhân và xuất cảnh vĩnh viễn khỏi Đông Đức nay được phép. Được hỏi khi
nào thì luật lệ có hiệu lực, ông Schobowski nói ngay lập tức, không trì
hoãn.
Sau đây vẫn là lời sử gia Frederick Taylor:
“Đa
số dân chúng ở Đông Berlin, nhất là vào thời điểm khi các diễn biến
quan trọng xảy ra hàng ngày, đã không theo dõi tin tức chính thức của
Đông Đức kể lại toàn bộ việc này theo một phiên bản được sửa đổi và nói
hãy xếp hàng
một cách có trật tự tại văn phòng cấp hộ chiếu ở địa phương vào ngày
mai. Họ xem truyền hình của Tây Đức và đài truyền hình Tây Đức nói ‘bức
tường đã sập, bức tường đã mở.’ Và trước cuối bản tin 15 phút, mọi người
bắt đầu đến nơi, người dân Đông Đức, người dân Đông Berlin bắt đầu đến
các trạm kiểm soát khác nhau và nói, ‘được rồi, chúng tôi phải làm gì để
ra khỏi đây?’”
Rất mau
chóng, hàng ngàn người Đông Đức đã tụ tập ở các trạm kiểm soát. Ông
Taylor nói vụ chen lấn tại các chốt biên giới này không thể tưởng tượng
được. Binh sĩ canh gác không được lệnh nào. Cuối cùng họ nói, “Hãy mở
các cổng ra.”
Ông Taylor kể
tiếp: “Thế là
hàng ngàn người, dĩ nhiên ùa vào Tây Berlin và mọi việc bung ra. Đến
hết đêm, tất cả các chốt biên giới khác đều mở và người Đông Berlin tràn
vào Tây Berlin, còn người Tây Berlin, thì tràn vào Đông Berlin, bởi vì,
tại sao không? Ta có thể trở lại mà.”
Cựu thông tín viên của tờ New York Times Serge Schmemann có mặt ở đó.
Ông
nói: “Vào khoảng nửa đêm, tôi đến bức tường và buổi liên hoan lên đến
cực điểm. Có người nhảy múa trên bức tường, đổ xô qua bức tường, và tất
cả những người Tây Đức đem rượu sâm panh tới. Rượu đổ tràn hàng trăm
thước về mọi hướng. Đó là một buổi liên hoan trác tuyệt kéo dài nhiều
ngày. Và tôi còn nhớ đó là một trong những bữa tiệc
đẹp nhất mà tôi từng đến dự. Thực là một giờ khắc hân hoan tột cùng.”
Cuối
cùng, bức tường Berlin đã sụp đổ mà không có một tiếng súng nổ. Như sử
gia Anh Frederick Taylor nói, vào cuối ngày 9 và 10 tháng 11 mọi người
đều cảm thấy rằng mọi thứ và bất cứ thứ gì đều có thể xảy ra.
A.D.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen