Phạm Trần
Nhà Thơ, Sọan Gỉa Cải Lương Kiên Giang
Hà Huy Hà, một trong số ít bạn làm báo người miền Nam của tôi không còn nữa. Anh
ra đi bất ngờ ở tuổi 87 vào rạng sáng ngày 31/10/2014, sau một cơn đột qụy tại
Sài Gòn.
Tên thật của Kiên Giang là Trương
Khương Trinh sinh tại làng Đông Thái, huyện An Biên, Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
ngày 17-2-1927. Ông là Tác gỉa của Bài Thơ tình lịch sử có thật của chính ông
mang tên “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím”. Bài Thơ này đã được Nhạc sỹ Huỳnh Anh
phổ Nhạc và đã được nhiều thế hệ Ca sỹ hát từ trước năm 1975, trong đó có tiếng
hát não lòng Hòang Oanh.
Tôi và Kiên Giang quen nhau thật tình
cờ khi tôi được ông Chủ nhiệm báo Tia Sáng, Nguyễn Trung Thành mời cộng
tác.
Vào thời kỳ 1960-1970, chuyện một Ký
gỉa trẻ gốc Bắc được chen chân vào một báo nổi tiếng lâu năm của người miền Nam
như tờ Tia Sáng không phải là chuyện thường xẩy ra. Cũng như chuyện Ký gỉa gốc
Nam vào làm cho một tờ báo của chủ nhiệm miền Bắc ở Sài Gòn, tuy không hiếm
nhưng cũng không thường xuyên.
Chuyện này thực ra không có một mảy may
lý do chính trị hay “kỳ thị Nam-Bắc” nào, nhưng hồi ấy việc thành lập Ban Biên
tập thường tập trung vào chỗ bạn bè quen nhau trong làng báo hay làng văn cho
nên việc ký gỉa Bắc “ùa” vào báo Bắc hay Ký gỉa Nam “tập trung vào báo Nam” cũng
là chuyện bình thường không ai thắc mắc.
Tôi và Kiên Giang gặp nhau lần đầu tại
qúan cơm-hủ tiếu của chú Ký, người Việt gốc Hoa gần trụ sở báo Tia Sáng vào
khỏang giữa 69-70. Anh hỏi tôi: “Làm sao mà Phạm Trần vào được báo của ông
Thành?”
Lúc đầu tôi hơi ngạc nhiên nhưng sau mới biết hồi ấy không có ai là người Bắc làm việc tại báo Tia Sáng và tôi là người đầu tiên, cũng như sau này tôi được ông Chủ nhiệm báo Đồng Nai Hùynh Thành Vị, cựu Dân biều thời Đệ nhất VNCH, mời viết cho báo của ông và gặp thêm Ký gỉa kiêm Sọan gỉa Cải Lương Mộc Linh (tên đảo ngược của Minh Lộc), một thời là chồng của cô đào Cải lương chi bảo Bạch Tuyết. Tại Đồng Nai, tôi cũng là Ký gỉa gốc Bắc duy nhất.
Lúc đầu tôi hơi ngạc nhiên nhưng sau mới biết hồi ấy không có ai là người Bắc làm việc tại báo Tia Sáng và tôi là người đầu tiên, cũng như sau này tôi được ông Chủ nhiệm báo Đồng Nai Hùynh Thành Vị, cựu Dân biều thời Đệ nhất VNCH, mời viết cho báo của ông và gặp thêm Ký gỉa kiêm Sọan gỉa Cải Lương Mộc Linh (tên đảo ngược của Minh Lộc), một thời là chồng của cô đào Cải lương chi bảo Bạch Tuyết. Tại Đồng Nai, tôi cũng là Ký gỉa gốc Bắc duy nhất.
Từ đó về sau 3 đứa chúng tôi thỉnh
thỏang khi có giờ thì “đàn đúm” tại qúan này hay qúan khác uống với nhau chai
bia để tán gẫu sau khi hết giờ ở Tòa sọan.
Kiên Giang là người miền Nam hiền hậu,
ít nói, ăn mặc xềnh xòang, lúc nào cũng có cái mũ trên đầu và sống trong nội tâm
nhiều hơn. Mộc Linh, cũng người miền Nam nhưng “bay bướm, đào hoa” và thường ăn
mặc chải chuốt của người thành phố.
“Đặc sản” của Kiên Giang là “chiếc giỏ”
lúc nào cùng kè kè bên mình như “bùa hộ mạng”. Trong chiếc giỏ lịch sử này, rất
nhiều bài viết về kịch trường, Tác phẩm Thơ và nhiều vở tuồng Cải lương nổi
tiếng của Hà Huy Hà (Kiên Giang) đã được khai sinh và dàn dựng.
Anh là người sáng tác rất khỏe và liên
tục không ngừng nghỉ nên ngồi ở chỗ nào anh cũng có thể viết được, ngay cả ở
qúan chú Ký ồn ào như tổ ong!
Trái lại Mộc Linh thì lúc nào trong túi
áo trước ngực cũng có vài ba cây bút Bic và một cuộn giấy chữ nghĩa gạch xóa lem
nhem. Cứ mỗi lần nghĩ ra điều gì, anh lại kéo giấy ra ghi chép rồi cuộn lại bỏ
túi.
Có lần Kiên Giang nói đùa: “Thằng này nó sợ tao cọp-py tuồng của nó nên nó mới cuốn lại đút vô túi!”
Nói xong, Kiên Giang lại rít một hơi thuốc lá rồi ngửa mặt lên trời phì khói cười sằng sặc.
Có lần Kiên Giang nói đùa: “Thằng này nó sợ tao cọp-py tuồng của nó nên nó mới cuốn lại đút vô túi!”
Nói xong, Kiên Giang lại rít một hơi thuốc lá rồi ngửa mặt lên trời phì khói cười sằng sặc.
Một hôm tôi thấy Kiên Giang ngồi như
bất động một hồi lâu ở qúan chú Ký quay mặt qua bên kia đường Trần Hưng
Đạo.
Tôi hỏi: “Nhìn em nào bên đó mà mê
mết vậy?”
Kiên Giang quay lại nói: “Có thấy
em mẹ nào đâu, tự nhiên cái đầu nó khựng lại.”
Theo tự chuyện của Kiên Giang thì ông
và Nhà văn Sơn Nam là người cùng quê. Ông tham gia kháng chiến chống Pháp sau
khi học hết lớp 12, làm báo cho tờ Tiếng súng chống địch ở chiến khu 9 và được
Nhà Thơ nổi tiếng “lục bát” Nguyễn Bính dạy làm Thơ trong thòi gian
này.
Sau khi đất nước chia đôi, ông về Sài
Gòn khỏang 1955 và xin vào làm “Thày cò” (sửa bài) cho báo Tiếng Chuông của Chủ
nhiệm miền Nam Đinh Văn Khai rồi dần dà trở thành Ký gỉa chuyên viết về kịch
trường và Cải lương cho nhiều báo, trong đó có Dân chủ mới của hai cụ Trần Tấn
Quốc và Nguyễn Kỳ Nam, Tiếng chuông, Dân ta, Dân tiến,Tia Sáng, Lẽ Sống, Tiếng
Dội, Thời Sự Miền Nam, Lập Trường, Điện Tín, Tia Sáng ở Sài-Gòn và Miền Tây ở
Cần Thơ; một số tạp chí văn-nghệ như Đời Mới, Bông Lúa, Vui Sống, Nhân Loại ,
Thế Giới, Phổ Thông v.v..
Báo bên Việt Nam cho biết “Sau
1975, nhà thơ Kiên Giang làm phó đoàn cải lương Thanh Nga, làm việc tại phòng
nghệ thuật sân khấu. Ông cũng từng là ủy viên ban chấp hành Hội sân khấu TP.HCM
qua ba nhiệm kỳ.”
NGUỒN GỐC THƠ VÀ TÌNH
Nói về nguồn gốc của Bài Thơ bất hủ
“Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím”, Kiên Giang kể: “Đây là tâm tình người trai
ngoại đạo đối với cô gái có đạo. Mối tình học trò tinh khiết, ngây thơ, không
nhuốm bụi trần. Năm 1944, tôi ở Cần Thơ học trường tư thục Nam Hưng, dốt toán
nhưng giỏi luận chuyên làm bài giùm cho bạn cùng lớp, trong đó có NH. (Nguyễn
Thúy Nhiều) – cô bạn dễ thương thường mặc áo bà ba trắng, quần đen, mang guốc
mộc. Có những buổi tan học lẽo đẽo đi theo sau NH. đến tận nhà cô ở xóm nhà thờ.
Cách mạng nổ ra, không có tiền đi đò về quê, NH. biết ý gửi cho, rồi đi kháng
chiến, gặp người quen trong đội quân nhạc nhắn: ‘Con Tám NH. vẫn chờ mày’. Năm
1955 tôi ghé ngang Cần Thơ, xin phép má của NH. tâm tình suốt đêm bên ánh đèn
dầu huê kỳ. Sau đó tôi nghe tin NH. lấy chồng có con đầu lòng đặt tên là tên
ghép lại của tôi và NH. vì thế chồng cô biết rất ghen tức. Chính vì lý do nầy
tôi đổi bốn câu kết bài thơ này, giống như tống tiễn mối tình học trò trinh
trắng.” (Trích Bách Khoa Tòan thư mở)
———
Kết trước là:
Xe tang đã khuất nẻo đời
Chuông nhà thờ khóc tiễn người ngàn thu
Từ nay tóc rũ khăn sô
Em cài hoa tím trên mồ người xưa
Kết trước là:
Xe tang đã khuất nẻo đời
Chuông nhà thờ khóc tiễn người ngàn thu
Từ nay tóc rũ khăn sô
Em cài hoa tím trên mồ người xưa
thành cái kết:
Lạy Chúa! Con là người ngoại đạo
Nhưng tin có chúa ở trên trời
Trong lòng con, giữa màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con Chúa ơi!
Lạy Chúa! Con là người ngoại đạo
Nhưng tin có chúa ở trên trời
Trong lòng con, giữa màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con Chúa ơi!
Các bài viết phổ biến trên Internet còn
cho biết Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím là: “Một chuyện tình thật của nhà
thơ với cô Nguyễn Thúy Nhiều, một cô bạn học cùng lớp đệ nhị tại trường tư thục
Nam Hưng, Cần Thơ. Tình trong như đã với cả hai nhưng thật câm nín, chàng trai
chỉ biết theo bước chân nàng những hôm nàng đi lễ nhà thờ, nàng thường mặc áo
tím và cài hoa trắng. Cho đến ngày kháng chiến tháng 8-1945. Ông về quê tham gia
kháng Pháp rồi gia đình ép lấy vợ. Mười năm sau gặp lại, người nữ áo tím ngày
nào vẫn chờ. “Hai tháng sau, ông nhận được thư bà Nhiều báo sẽ lấy chồng vì Kiên
Giang đã có vợ. Người chồng của bà Nhiều cũng tên Trinh và khi sinh đứa con đầu
lòng bà đặt tên tên Triều (gồm một nửa Nhiều và Trinh cộng
lại).”
Kiên Giang cho biết thêm: “Năm
1999, hãng phim TFS Đài Truyền hình Thành phố HCM có làm phim “Chiếc giỏ đời
người” về sự nghiệp hoạt động văn nghệ của tôi, khi trở về Cần Thơ quay lại cảnh
trường cũ, mới hay tin là NH. mất năm 1998. Tôi mua bó huệ trắng, ra thăm mộ NH.
ở nghĩa trang Cái Su. Đúng là:
“Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh
Từng cài trên áo tím ngây thơ
Hôm nay vẫn đóa hoa màu trắng
Anh kết tình tang gởi xuống mồ”
“Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh
Từng cài trên áo tím ngây thơ
Hôm nay vẫn đóa hoa màu trắng
Anh kết tình tang gởi xuống mồ”
NƯỚC MẮT KIÊN
GIANG
Trong khỏang thời gian mấy năm quen
nhau quanh các tờ báo “của Chủ nhiệm miền Nam”, ít ra cũng tới 4 lần tôi chứng
kiến Kiên Giang rưng rưng nước mắt mỗi khi đọc trên báo có tin viết về một tai
nạn gây chết người, dù do đạn pháo kích của quân Cộng sản vào thành phố hay chỉ
là một tai nạn xe cộ.
Có lần Kiên Giang buột miệng: “Sao dân mình khổ qúa chừng a?”
Có lần Kiên Giang buột miệng: “Sao dân mình khổ qúa chừng a?”
Anh là người rất dễ xúc động mỗi khi
thấy chuyện người dân cô thế bị tai nạn nên có lần tôi nghe Ngô Tỵ (Tổng Thứ ký
Tòan sọan Tia Sáng) bảo: “Thằng Kiên Giang nó yếu xìu à, hơi tí là nó
khóc!”
Vì vậy, không ai lạ khi thấy báo
Việtnam Express bên Việt Nam kể trong số ra ngày 31/10/2014: “Chị Thùy, con
gái thứ ba của nhà thơ, soạn giả Kiên Giang nghẹn ngào cho biết, trước khi ba
mất, chị và ông còn trao đổi với nhau được vài câu. Nhà thơ sinh 1926 nhập bệnh
viện Nguyễn Tri Phương, TP HCM, từ ngày 28/10 sau một cơn đột quỵ. Từ khi ông
nhập viện, dù các bác sĩ tận tình cứu chữa, do tuổi cao sức yếu, khả năng cầm cự
của ông ngày càng có chiều hướng xấu đi. Chiều 30/10, gia đình và các bác sĩ
bệnh viện Nguyễn Tri Phương thống nhất đến 18h ngày 31/10 rút ống thở oxy để ông
ra đi được nhẹ nhàng hơn. “Khi chưa rút ống thở thì 6h30 sáng nay ba tôi qua
đời”.
Chị Thùy kể tiếp: Trước ngày 28/10 –
thời gian ông bị đột quỵ – nhà thơ Kiên Giang hoàn toàn khỏe khoắn. Khi đọc tin
về một sản phụ ở An Giang bị xe tải cán lọt thai nhi ra ngoài, ông xúc động
mạnh. Lão nhà thơ quyết định lấy số tiền lương hưu gần 3 triệu đồng của ông để
mang đi tặng gia đình người bị nạn. Chị Thùy thấy tấm lòng của ba nên góp cùng
ông thêm cho số tiền đủ 5 triệu đồng. Do cha con người bị nạn được chuyển về Sài
Gòn điều trị, ông quyết định khăn gói lên Sài Gòn để tận tay trao tiền. Ban đầu
gia đình can ngăn vì tuổi ông đã cao, lại di chuyển đường xa nhưng ông quyết
định phải đi để trao tiền cho kịp thời.
Nhà thơ một mình bắt xe lên Sài Gòn và
ghé nhà người quen ở quận 8 ở, ông còn dành thời gian viết một bài báo trải lòng
về tai nạn giao thông thương tâm làm chết đi người mẹ, người vợ trẻ. Ông định
khi viết xong bài sẽ gửi đăng báo và vào bệnh viện để trao tiền. Nhưng khi vừa
hoàn thành bài viết, ông kêu mệt, tay chân tím. Nhà thơ nhanh chóng được đưa vào
bệnh viện Điều dưỡng quận 8 và sau đó chuyển qua bệnh viện Nguyễn Tri
Phương.”
Sau khi qua đời, anh Kiên Giang đã để
lại:
Thơ
Hoa trắng thôi cài trên áo tím (1962)
Lúa sạ miền Nam (1970)
Quê hương thơ ấu
Cải lương
Người đẹp bán tơ (1956)
Con đò Thủ Thiêm (1957)
Người vợ không bao giờ cưới (1958 – với Phúc – Nguyên)
Ngưu Lang Chức Nữ
Áo cưới trước cổng chùa
Phấn lá men rừng
Từ trường học đến trường làng
Dòng nước ngược
Chia đều hạnh phúc
Trương Chi Mỵ Nương
Mây chiều xuyên nguyệt thôn
Sương phủ nửa chừng xuân
Chén cơm sông núi
Hồi trống trường làng
Lưu Bình – Dương Lễ
Hoa trắng thôi cài trên áo tím (1962)
Lúa sạ miền Nam (1970)
Quê hương thơ ấu
Cải lương
Người đẹp bán tơ (1956)
Con đò Thủ Thiêm (1957)
Người vợ không bao giờ cưới (1958 – với Phúc – Nguyên)
Ngưu Lang Chức Nữ
Áo cưới trước cổng chùa
Phấn lá men rừng
Từ trường học đến trường làng
Dòng nước ngược
Chia đều hạnh phúc
Trương Chi Mỵ Nương
Mây chiều xuyên nguyệt thôn
Sương phủ nửa chừng xuân
Chén cơm sông núi
Hồi trống trường làng
Lưu Bình – Dương Lễ
Rất nhiều bài tân cổ giao duyên: Trái
gùi Bến Cát, Đội gạo đường xa, Tim đá mạ vàng, Ngồi trâu thổi sáo, Ánh đèn soi
ếch, Người đẹp bán tơ, Hương cao quê ngoại, Trái tim cò trắng, Vắt sữa nai nuôi
mẹ, Hương sắc gái Cà Mau, Lập quán kén chồng, Ni cô và lão ăn mày, Khói lò gạch,
Cô gái miền Tây…
Theo Tác giả Nguyễn Vy Khanh bên Việt
Nam thì tuyệt tác Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím có 2 văn bản.
Ông Khanh viết: “Trước hết, xin ghi lại
văn bản đầu trích từ tuyển tập Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím do nhà Phù Sa xuất
bản năm 1962, chúng tôi in nghiêng những câu và
chữ sẽ thay đổi ở bản sau. Đầu bài thơ ghi “Tâm-tình người
trai ngoại đạo đối với cô gái có đạo”:
Bài 1:
“Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa xóa không gian
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương, nóc giáo đường
Mười năm trước em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh
***
Trường anh ngó mặt giáo đường
Gác chuông thương nhớ lầu chuông
U buồn thay! chuông nhạc đạo
Rộn rã thay! chuông nhà trường
Lần lữa anh ghiền nghe tiếng chuông
Làm thơ sầu mộng dệt tình thương
Để nghe khe khẽ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thánh đường
Mỗi lần tan lễ chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thuồng, anh đứng lại không đi
***
Sau mười năm lẻ, anh thôi học
Nức nở chuông trường buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy
Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm khối tuyệt tình
- Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Thôi còn đâu nữa tuổi băng trinh
Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang cách mấy sông
Anh vẫn yêu người em áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng
***
Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ màu áo tím, người yêu cũ
Giữ cả lầu chuông, nóc giáo đường
Mặc dù em chẳng còn xem lễ
Ở giáo đường u-tịch chốn xưa
Anh vẫn giữ lầu chuông gác thánh
Nghe chuông truy niệm mối tình thơ
Màu gạch nhà thờ còn đỏ thắm
Như tình nồng thắm thuở ban đầu
Nhưng rồi sau chuyến vu-qui ấy
Áo tím nàng thơ đã nhạt màu
***
Ba năm sau chiếc xe hoa cũ
Chở áo tím về trong áo quan
Chuông đạo ngân vang hồi vĩnh biệt
Khi anh ngồi kết vòng hoa tang
Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh
Từng cài trên áo tím ngây thơ
Hôm nay vẫn đoá hoa màu trắng
Anh kết tình tang gởi xuống mồ
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Không còn đứng nép ở lầu chuông
Những khi chuông đổ anh liên tưởng
Người cũ cầu kinh giữa giáo đường
“Lạy Chúa! con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên trời”
Trong lòng con, giữa màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi !!”
(Bến Tre 14-11-57) (Tr. 25-27)
Nguyễn Vy Khanh giải thích thêm: “Trong bài này, mối tình đam mê của ‘người trai ngoại đạo’ rất nồng nàn và kết thúc lãng mạn. Ngược lại, ở bài sửa lại sau, ghi ngày 28-5-1958, thay vì nhân vật nữ chết và tình tác-giả vẫn nồng cháy, thì ông để người trai “đã chết hiên ngang dưới bóng cờ” khi bảo vệ ngôi thánh đường và như tác giả sau này cho biết vì muốn người yêu sống hạnh phúc bên chồng con, ông đã đổi một số câu trong bài cho hợp tình ý câu chuyện và đoạn kết bài thơ như muốn tống tiễn mối tình học trò trong trắng ấy” . Xin ghi lại nguyên bài thứ hai (trong cùng tập do nhà Phù Sa xuất bản, tác-giả để bài năm 1958 lên đầu tập, trang 9-11 và phụ ghi là bài 1, bài năm 1957 thành bài 2, trang 25-27).
“Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa xóa không gian
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương, nóc giáo đường
Mười năm trước em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh
***
Trường anh ngó mặt giáo đường
Gác chuông thương nhớ lầu chuông
U buồn thay! chuông nhạc đạo
Rộn rã thay! chuông nhà trường
Lần lữa anh ghiền nghe tiếng chuông
Làm thơ sầu mộng dệt tình thương
Để nghe khe khẽ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thánh đường
Mỗi lần tan lễ chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thuồng, anh đứng lại không đi
***
Sau mười năm lẻ, anh thôi học
Nức nở chuông trường buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy
Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm khối tuyệt tình
- Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Thôi còn đâu nữa tuổi băng trinh
Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang cách mấy sông
Anh vẫn yêu người em áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng
***
Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ màu áo tím, người yêu cũ
Giữ cả lầu chuông, nóc giáo đường
Mặc dù em chẳng còn xem lễ
Ở giáo đường u-tịch chốn xưa
Anh vẫn giữ lầu chuông gác thánh
Nghe chuông truy niệm mối tình thơ
Màu gạch nhà thờ còn đỏ thắm
Như tình nồng thắm thuở ban đầu
Nhưng rồi sau chuyến vu-qui ấy
Áo tím nàng thơ đã nhạt màu
***
Ba năm sau chiếc xe hoa cũ
Chở áo tím về trong áo quan
Chuông đạo ngân vang hồi vĩnh biệt
Khi anh ngồi kết vòng hoa tang
Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh
Từng cài trên áo tím ngây thơ
Hôm nay vẫn đoá hoa màu trắng
Anh kết tình tang gởi xuống mồ
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Không còn đứng nép ở lầu chuông
Những khi chuông đổ anh liên tưởng
Người cũ cầu kinh giữa giáo đường
“Lạy Chúa! con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên trời”
Trong lòng con, giữa màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi !!”
(Bến Tre 14-11-57) (Tr. 25-27)
Nguyễn Vy Khanh giải thích thêm: “Trong bài này, mối tình đam mê của ‘người trai ngoại đạo’ rất nồng nàn và kết thúc lãng mạn. Ngược lại, ở bài sửa lại sau, ghi ngày 28-5-1958, thay vì nhân vật nữ chết và tình tác-giả vẫn nồng cháy, thì ông để người trai “đã chết hiên ngang dưới bóng cờ” khi bảo vệ ngôi thánh đường và như tác giả sau này cho biết vì muốn người yêu sống hạnh phúc bên chồng con, ông đã đổi một số câu trong bài cho hợp tình ý câu chuyện và đoạn kết bài thơ như muốn tống tiễn mối tình học trò trong trắng ấy” . Xin ghi lại nguyên bài thứ hai (trong cùng tập do nhà Phù Sa xuất bản, tác-giả để bài năm 1958 lên đầu tập, trang 9-11 và phụ ghi là bài 1, bài năm 1957 thành bài 2, trang 25-27).
Bài 2:
“Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương nóc giáo đường
Mười năm trước, em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh
***
Quen biết nhau qua tình lối xóm
Cổng trường đối diện ngó lầu chuông
Mỗi lần chúa nhựt em xem lễ
Anh học bài ôn trước cổng trường
Thuở ấy anh hiền và nhát quá
Nép mình bên gác thánh lầu chuông
Để nghe khe khẽ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thánh đường
Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thuồng, anh đứng lại không đi
***
Sau mười năm lẻ, anh thôi học
Nức nở chuông trường, buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy
***
Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm một khối sầu
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Giữ làm chi kỷ-vật ban đầu
Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang cách mấy sông
Vẫn nhớ bóng vang thời áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng
Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ tà áo tím màu hoa trắng
Giữ cả trường xưa nóc giáo đường
Giặc chiếm lầu chuông xây gác súng
Súng gầm rung đổ gạch nhà thờ
Anh gom gạch đổ xây tường lũy
Chiếm lại lầu chuông giết kẻ thù
Nhưng rồi người bạn đồng trang lứa
Đã chết hiên ngang dưới bóng cờ
Chuông đổ ban chiều, em nức nở
Tiễn anh ra khỏi cổng nhà thờ
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Mà cài trên nắp cỗ quan tài
Điểm tô công trận bằng hoa trắng
Hoa tuổi học trò mãi thắm tươi
***
Xe tang đã khuất nẻo đời
Chuông nhà thờ khóc …tiễn người ngàn thu
Từ đây, tóc rũ khăn sô
Em cài hoa trắng trên mồ người xưa”
(Gia-Định 28-5-58) (Tr. 9-11)
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương nóc giáo đường
Mười năm trước, em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em là cô gái tuổi băng trinh
***
Quen biết nhau qua tình lối xóm
Cổng trường đối diện ngó lầu chuông
Mỗi lần chúa nhựt em xem lễ
Anh học bài ôn trước cổng trường
Thuở ấy anh hiền và nhát quá
Nép mình bên gác thánh lầu chuông
Để nghe khe khẽ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thánh đường
Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ, em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thuồng, anh đứng lại không đi
***
Sau mười năm lẻ, anh thôi học
Nức nở chuông trường, buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Tiễn nàng áo tím bước vu quy
***
Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm một khối sầu
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Giữ làm chi kỷ-vật ban đầu
Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang cách mấy sông
Vẫn nhớ bóng vang thời áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng
Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ tà áo tím màu hoa trắng
Giữ cả trường xưa nóc giáo đường
Giặc chiếm lầu chuông xây gác súng
Súng gầm rung đổ gạch nhà thờ
Anh gom gạch đổ xây tường lũy
Chiếm lại lầu chuông giết kẻ thù
Nhưng rồi người bạn đồng trang lứa
Đã chết hiên ngang dưới bóng cờ
Chuông đổ ban chiều, em nức nở
Tiễn anh ra khỏi cổng nhà thờ
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Mà cài trên nắp cỗ quan tài
Điểm tô công trận bằng hoa trắng
Hoa tuổi học trò mãi thắm tươi
***
Xe tang đã khuất nẻo đời
Chuông nhà thờ khóc …tiễn người ngàn thu
Từ đây, tóc rũ khăn sô
Em cài hoa trắng trên mồ người xưa”
(Gia-Định 28-5-58) (Tr. 9-11)
Trước sự ra đi của Kiên Giang, báo
Người Lao Động viết hôm 31/10/2014: “Gần bước qua tuổi 86 mà ông vẫn “lang
bạt giang hồ”. Vừa chịu về vùng quê Long Xuyên chung sống với con gái chưa được
vài tháng, ông đã ba lần khăn gói lên Sài Gòn. Trước đây, với chiếc xe cánh én
đã sờn màu, ông vẫn thích tự do đi lại nhiều nơi để tìm cảm hứng sáng
tác.
Nghệ sĩ Phượng Liên kể một chi tiết
đau lòng: “Là soạn giả nghèo, ký giả kịch trường tàn tạ nhất nhưng ông vẫn giàu
nhân nghĩa. Đi đường thấy những đứa trẻ đánh giày đói rách, còn bao nhiêu tiền
trong túi ông móc ra cho hết. Có lẽ không chỉ riêng tôi, hầu như mọi người yêu
thơ khi nghe qua những bài thơ của ông, đều phải cảm thương người thi sĩ mang
kiếp con tằm, đến thác vẫn còn nhả tơ cho đời”.
Báo NLĐ cũng nhắc lại câu chuyện Nghệ
sỹ Viễn Châu đã có lần nhận xét về Kiên Giang: “Là con thứ trong gia đình
gồm 5 anh em, ông lấy tên quê hương đặt bút danh cho mình: Kiên Giang. Sinh ra
trong một gia đình thuần nghề nông của miền sông nước, tuổi thơ nhà thơ Kiên
Giang trải qua những nhọc nhằn ở vùng U Minh Thượng. Do vậy, tập thơ cuối cùng
ông sáng tác, đang chuẩn bị in để ra mắt bạn yêu thơ, ông đặt tên Theo vết xe
trâu. “Bởi, tuổi thơ của Kiên Giang gắn liền với đồng áng, với giếng nước, bờ
tre, ruộng lúa nên vết xe trâu chính là những lát cắt thân phận đậm chất nhà quê
đi vào thơ ca, sân khấu bằng ngòi bút mẫn cảm của ông. Và trên hết, bàng bạc
trong tác phẩm của ông là thân phận con người, tình người, tình yêu quê hương và
lòng chung thủy.”
Nghệ sỹ Út Bạch Lan nói: “Vở Người vợ
không bao giờ cưới đã mang về cho NSƯT Thanh Nga giải thưởng Thanh Tâm – Nữ nghệ
sĩ cải lương xuất sắc nhất từ đó trở thành ngôi sao sáng trên sân khấu cải
lương”.
Danh hài Bảo Quốc, em ruột Thanh Nga
cho biết: “Vở Người vợ không bao giờ cưới của ông là một di sản lớn đối với
Đoàn Thanh Minh – Thanh Nga. “Bút pháp và tài năng của ông đã để lại cho các thế
hệ nghệ sĩ chúng tôi sự đồng điệu sâu sắc, đó là tinh thần yêu
nước.”
Trước ngày từ gĩa cõi đời, theo báo
NLĐ, Kiên Giang từng mộc mạc:
“Ta về với vết xe
trâu
Để bao trĩu nặng u sầu tan đi
Quê hương tuổi ngọt căng tròn
Tình tan một thuở cho đời du ca”
Để bao trĩu nặng u sầu tan đi
Quê hương tuổi ngọt căng tròn
Tình tan một thuở cho đời du ca”
Trong suốt gần 40 năm qua, qua gián
tiếp, tôi và Kiên Giang vẫn biết mình còn sống và nhớ đến nhaudù xa nhau nửa qủa
địa cầu.
Giờ đây người bạn làm báo “người miền
Nam” Kiên Giang Hà Huy Hà chân thật và hiền lành của tôi thuở Sài Gòn trước năm
1975 không còn nữa, nhưng làm sao tôi quên anh và những “người bạn làm báo miền
Nam” đã một thời từng “làm chung và ngồi cùng bàn với anh nhà báo Bắc kỳ
này”?
Tôi đã khóc thương anh, một Nhà Thơ,
một Sọan gỉa Cải Lương đa tài và nghèo nhưng rất giầu với tấm lòng thương người
bao la.
Phạm
Trần
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen