Võ Phương
“Đã mất nước từ Tháng
Tư 1975 chứ không phải bây giờ!” Đó là lời phát biểu của
một ông bạn già của tôi ở Garden Grove, đi tỵ nạn Cộng sản đã 39 năm chưa một
lần về thăm quê hương, mang tâm trạng “chính mình đã chết từ năm đó, mặc dù chưa
chết thật.” Ông cho biết thêm: “Vì chưa chết thật nên vẫn nuôi hy vọng một
ngày về thăm quê hương. Niềm hy vọng tăng lên mỗi khi nhìn thấy các bạn trẻ dấn
thân chống Việt Cộng và Tàu Cộng. Tôi hết sức ngưỡng mộ và cám ơn các bạn. Xu
thế Tự Do, Dân Chủ của Thế Kỷ Thứ 21 sẽ không cho phép chủ nghĩa độc tài tồn
tại, sẽ giúp chúng ta và cả dân tộc Trung Hoa nữa.”
Đúng vậy! Gần đây, khi
nhìn vào lực lượng công an khai triển trên quảng trường Thiên An Môn ngày 4-6,
mới thấy bạo quyền Bắc Kinh rất lo sợ về một cuộc biểu tình có
thể tái bùng phát, tương tự như cuộc biểu tình của sinh viên đòi Dân Chủ đã
diễn ra cách đây 25 năm. Theo tin tức từ các cơ quan truyền thông quốc tế, thì
ngay cả các phóng viên nước ngoài, vào ngày 4-6, cũng không được phép bén
mảng đến quảng trường, càng cho thấy rõ tính chất nghiêm trọng tại đây. Đảng
cộng sản Tàu không muốn nhìn thấy tình trạng ‘đòi Dân Chủ’ có thể sẽ lại tái
diễn.
Nhiều bài báo của các cơ
quan truyền thông, và của các tổ chức nhân quyền, vào dịp này đã đề cập
đến “sự kiện Thiên An Môn làm chấn động thế giới” với
những cảnh giết người tàn bạo vẫn còn lưu giữ trên các diễn đàn internet từ ¼
thế kỷ qua, mặc dầu Bắc Kinh đã cố tình bôi xoá. Hàng năm cứ đến ngày 4-6, hình
ảnh xích sắt của hàng trăm chiếc xe tăng quân đội Tàu Cộng lăn trên đường phố,
hung hăng tàn sát hàng ngàn sinh viên có cùng nòi gống với họ, lại được phô
diễn. Hình ảnh những họng súng hướng vào đám đông nhả đạn, máu đổ, thịt rơi
vung vãi khắp nơi, thật ghê rợn, đã vĩnh viễn ghi vào lịch sử đen tối, không
chỉ của nước Trung Hoa mà của cả loài người! Đồng thời, Đặng Tiểu Bình là người
ra lệnh thảm sát sinh viên trong ngày tang tóc ấy, cũng được ‘trang trọng’ ghi
tên vào lịch sử nước Tàu.
Thành tích ấy của họ
Đặng không thua thành tích giết người đáng ghê tởm của người kế vị, Giang Trạch
Dân với “trại tù Pháp Luân Công” mà thế giới văn minh gọi
những tù nhân đang bị giam giữ tại trại này là những “tủ lạnh biết đi”, sẵn
sàng cung cấp nội tạng cho những ai cần đến, bất cứ lúc nào.
Đó là sáng kiến
giết người cực kỳ dã man, đáng ghê tởm của họ Giang cũng là nhân vật ‘có công’,
đáng được ghi tên vào lịch sử nước Tàu. Nhưng chắc chắn 2 tay đao phủ: Đặng và
Giang vẫn thua xa thành tích đao phủ Mao Trạch Đông với 45 triệu người mất mạng
trong “bước đại nhảy vọt” (theo giáo sư Frank Dikotter, giáo sư Đại học Hồng
Kông).
Những thành tích giết
người -- đáng ghê tởm của các lãnh tụ đảng cộng sản Tàu -- chỉ có thể gặt hái
được qua những não trạng mất nhân tính, say máu đồng loại,
và những bàn tay đã quen trò chơi vấy máu, không gớm tay.
Khi so sánh tội ác thời
Đức Quốc Xã với tội ác thời Cộng Sản, người ta thường nghĩ ngay đến trại
giam “holocaust, the mass murder”, tàn bạo nổi tiếng thế kỷ thứ 19.
Nhưng trại giam ấy chỉ để hành hạ những ai không cùng nòi giống Aryen.
Người Cộng Sản tàn ác hơn nhiều, họ không quan tâm đến nòi giống, mà chỉ quan
tâm đến địa vị và quyền lợi riêng tư của phe nhóm đảng Cộng Sản. Những ai, cho
dù là cùng nòi giống, ngay cả bà con thân thiết, hay các ‘đồng chí’ lâu năm của
họ, mà dám đi ngược lại quyền lợi của phe nhóm Cộng Sản, hay quyền lợi của cá
nhân ‘lãnh tụ’ sẽ bị quy kết là có “tội”, sẽ bị giam cầm, bị tra tấn dã man, và
sẽ mất mạng, như trường hợp ông dượng Jang Song-thaek (và hàng trăm bà con thân
thích của ông ta cũng như các đồng phạm) -- của “cậu Ủn” Kim Jong-un, ‘lãnh tụ’
cộng sản Bắc Hàn -- bị đưa đi hành quyết rất man rợ vào ngày 9-12-2013. Do vậy,
mà Cộng Sản tàn ác hơn Đức Quốc Xã nhiều.
Với vô vàn chứng cớ giết
người vô tội lên đến hàng trăm triệu, được ghi lại trong sử sách nói về các xã
hội thời Cộng Sản trên thế giới đã chứng minh cho sự tàn bạo đó. Hiện nay, Đảng
Cộng Sản Tàu đứng đầu 4 nước cs còn sót lại trên thế giới, đang là kẻ thù hung
hãn nhất của xu thế Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền.
Điều đáng buồn: Việt
Cộng lại là ‘đệ tử’ lâu đời của Tàu Cộng hiện đang bị chúng hất hủi, cho nên
cách hành sử của VC đối với dân lành trong nước, cũng ngang ngược và tàn bạo
không kém ‘sư phụ’ của họ. Theo cách nói nịnh bợ của VC, hai nước Tàu và Việt
có cùng chung biên giới, “sông liền sông, núi liền núi” mà Tố Hữu, cán bộ cao cấp của ‘đảng’, trước đây đã mô tả:
“Bên kia biên giới là nhà,
Bên này biên giới cùng là
anh em.”
Vì “cùng là anh
em”, cho nên không lấy gì làm lạ, dù đứng trước hoàn cảnh bi đát của Biển
Đông mà đại tướng VC Phùng Quang Thanh vẫn cứ lên giọng, phát biểu trước diễn
đàn an ninh Shangri-La ngày 31 tháng 5-2014: “Trên thực tế, ngay ở trong quốc gia hay mỗi gia
đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng
với nhau còn tồn tại vấn đề tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va chạm là
điều khó tránh khỏi.”
Sự thật ai cũng biết,
Tàu Cộng cắm dàn khoan HD981 xuống thềm lục địa Việt Nam hồi đầu tháng 5-2014
là một bước tiến mới trong kế hoạch ‘Hán hóa’ toàn cõi Đông Nam Á đã
được Mao Trạch Đông khẳng định trong cuộc họp Bộ Chính Trị ban chấp hành trung
ương đảng cộng sản Tàu hồi tháng 8 năm 1965: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao
gồm cả nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo…” chứ không phải đơn thuần chỉ là mâu thuẫn giữa ‘anh em’ hay
chuyện ‘gia đình’ như cán bộ ‘vẹm’ họ Phùng vừa rêu rao, nhằm
đánh lừa dư luận quần chúng. Dĩ nhiên, các cán bộ ‘vẹm’ chuyên nghề lừa giối là
chuyện thường tình, nhưng chỉ lừa giối được những ai chưa có kinh nghiệm về
‘vẹm’.
Các nước ‘Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và
Singapo’ được Mao chiếu cố, tương
lai chính trị ra sao, chưa ai biết; nhưng riêng tại ‘nam Việt Nam’ thì Mao đã thành công trong kế hoạch ‘Hán
hóa’ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975; có sự tiếp tay rất tích cực của Hồ Chí Minh
và đồng đảng với cái gọi là “Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam” được
Hanoi khai sinh vào ngày 9-12-1960. Lúc đó giới bình dân ở Saigon gọi mặt trận
này là “mặt trận côn đồ miền nam”.
Vì vậy mà ông bạn già ở
Garden Grove của tôi rất chí lý khi phát biểu: “Đã mất nước từ Tháng Tư 1975, chứ không phải
bây giờ.” Nhưng thực ra, phải nói
là ‘đã mất nước từ tháng
9 năm 1945’ mới đúng, là vì
năm ấy Việt Minh (tức Việt Cộng bây giờ) đã cướp chính quyền của cụ Trần Trọng
Kim.
Điều mong muốn của Tàu
Cộng hiện nay là, làm thế nào để có thể ‘bình thường hóa’ vấn đề
Biển Đông có lợi cho họ, mà không gây sóng gíó trước dư luận quốc tế. Tương tự
như Việt Cộng đã từng giúp Tàu Cộng thành công trong việc lấn chiếm ải Nam
Quan, thác Bản Giốc, cắm lại cột mốc biên giới phía Bắc Việt Nam từ đầu thập
niên 2000, không mấy khó khăn, không mấy ồn ào. Tàu cộng không quan tâm tới dư
luận ở trong nước Việt Nam, vì Bắc Kinh yên tâm là đã có tay sai ở Hanoi sẽ
khống chế dân chúng bằng kinh nghiệm tuyên truyền lừa giối với các phương tiện
truyền thông độc quyền, như báo chí, truyền thanh, truyền hình, v.v... Và hiệu
quả hơn, là bằng bạo lực từ hệ thống “Công An Nhân Dân”. Không
có gì trở ngại.
Có thể nói, vấn đề Biển
Đông khó giải quyết là vì dính dáng đến quyền lợi quốc tế. Chứ nếu
chỉ dính dáng đến Việt Nam thôi, thì mọi chuyện đã ‘thuận buồm xuôi gió’ trong
kế hoạch của Bắc Kinh, âm thầm gặm nhấm từng phần, tiến tới
toàn phần bờ cõi Việt Nam, không khó khăn, không tốn kém. Nếu Tập Cận Bình,
người đứng đầu đảng giặc đại Hán hiện nay, đừng nóng lòng gây sóng gió Biển
Đông quá sớm, mà cứ chờ đến khi hội nghị Thành Đô (tuyệt phẩm
bán nước của Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười) ký kết
hồi tháng 9 năm 1990 và sẽ hoàn tất việc dâng đất cho giặc đại Hán
vào năm 2020 rồi mới đặt dàn khoan HD981 xuống thềm lục địa Việt Nam, thì
có thể đã không ồn ào như bây giờ.
Thế nhưng, dù thế nào
thì Tập Cận Bình cũng nên biết và ghi nhớ những sự kiện lịch sử: dân tộc Việt
Nam xưa kia là dân tộc Lạc-Việt, luôn yêu chuộng hòa bình. Tuy không nặng lòng
với “Chủ nghĩa Dân tộc quá khích”, nhưng nặng lòng với Truyền Thống Bất
Khuất, Chống Giặc Ngoại Xâm. Truyền thống ấy luôn tiềm ẩn
trong lòng người dân rất lâu đời, trải dài hàng ngàn năm trước khi Chủ nghĩa
Cộng Sản xuất hiện trên mặt địa cầu. Truyền thống ấy luôn hiên ngang tồn tại
cho đến ngày nay. Cho dù trong quá khứ đôi lần chịu lép vế qua một vài giai
đoạn “Bắc thuộc” nhưng luôn nuôi ý thức trỗi dậy và đã thành công trong việc
giành lại chủ quyền. Truyền thống ấy chính là linh hồn cũng là niềm hy vọng vô
biên đáng tin cậy của nhiều thế hệ người Việt Nam, liên tục kế thừa sứ mạng
dựng nước và giữ nước do cha, ông để lại. Truyền thống ấy đã được chứng minh
qua lịch sử, giặc Hán chưa bao giờ thành công trong việc đặt nền móng thống trị
lâu dài trên giang sơn của dòng giống Lạc-Việt. Cho dù đôi lúc vì hoàn cảnh của
một nước nhỏ bên cạnh một nước lớn hung hãn, cho nên bắt buộc “gặp thời thế,
thế thời phải thế”, nhưng dân tộc Lạc-Việt chính là dân tộc Việt Nam hiện
nay, chưa bao giờ chịu cúi đầu hèn hạ, cắt đất, dâng biển
cho giặc đại Hán như thời đại Cộng sản Hồ Chí Minh là thời đại bán
nước, bệ rạc nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, từ thời lập quốc đến nay.
Cho nên dù là “công
hàm bán nước”, “hiệp định biên giới”, “hội nghị Thành Đô” hoặc gì gì
đi nữa do 2 Cộng đảng Hanoi và Bắc Kinh cấu kết, lén lút hứa hẹn, ký kết với
nhau, có được thực thi hay không, thì đối với toàn dân Việt Nam không được tham
gia vào việc này, cũng chỉ có tính cách cưỡng ép, tạm thời, giai đoạn. Những
văn kiện ấy, cho dù có được ‘chính phủ’ hay ‘quốc hội’ VC thông qua, cũng không
có giá trị pháp lý, vì tất cả các ngành Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp dưới thời
Cộng sản đều do đảng CSVN độc quyền thao túng bằng bạo lực. Toàn dân Việt Nam
không công nhận bạo lực. Cũng không có tòa án lương tâm nào trên thế giới lại
đi công nhận hay cổ vũ cho bạo lực. Những văn kiện ấy là những dấu
vết lịch sử ô nhục, sẽ trở thành vô giá trị một khi Chủ
Quyền đất nước thuộc về tay toàn dân. Vết ô nhục ấy rồi đây sẽ được tẩy rửa
bằng máu thông qua HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG truyền thống.
Bạo quyền Hanoi đang là
trở ngại lớn nhất của Hội Nghị Diên Hồng. Hàng chuỗi cuộc biểu tình lớn, nhỏ
chống Bạo quyền Hanoi và chống Tàu Cộng xâm lăng xảy ra lúc gần đây ở khắp nơi
có người Việt Nam cư ngụ -- mặc dầu ở trong nước bị “Công an Nhân dân” cấm
đoán, ngăn cản, đánh đập dã man, kết án, bỏ tù, nhưng lúc nào cũng âm ỉ
-- đã chứng minh cho truyền thống bất khuất vừa nêu trên.
Hàng chuỗi chiến công
hiển hách chống giặc đại Hán xâm lăng liên tục từ thời đại Hai Bà Trưng (năm
43) đến nay, chưa bao giờ được người Việt Nam nhắc lại nhiều lần như bây giờ.
Trong đó có lời cảnh cáo đanh thép:
Nam quốc sơn hà
Nam quốc
sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
南國山河
南 國 山 河 南 帝 居
截 然 分 定 在 天 書
如 何 逆 虜 來 侵 犯
汝 等 行 看 取 敗 虛
Sông núi nước Nam
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Rành rành định
phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi
bời.
Xu thế thời đại TỰ DO,
DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN sẽ không cho phép các chính thể độc tài, đảng trị tồn tại
lâu hơn nữa.
Lời cảnh cáo giặc cướp và tay sai trên đây cũng là tuyên
ngôn bất di bất dịch của dân tộc Việt Nam cách đây đã hơn một ngàn năm, đến nay vẫn còn hiệu lực.
Võ
Phương
17.6.2014
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen