GIẢI PHÓNG: NỖI KINH HOÀNG CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT NAM
Phạm Lê Vương Các (VietNam UPR), 22/6/2014 -
Việt Nam chấp nhận 182 khuyến nghị UPR (khoảng 80%) và bác bỏ 45 khuyến
nghị (khoảng 20%) là điều không bất ngờ đối với những ai quan tâm đến
UPR. Điểm lại, có thể dễ nhận ra rằng, Nhà nước Việt Nam đã chấp nhận
hầu hết các khuyến nghị ít tranh cãi như quyền phụ nữ, quyền trẻ em, bảo
vệ nhóm người yếu thế, và mang xu hướng cải thiện đời sống dân sinh như
hướng đến mục tiêu Thiên Niên Kỷ của Liên Hiệp Quốc, cũng như chấp nhận
các khuyến nghị chung chung, không rõ ràng.
Trước
đó, trong Hội thảo Thông báo về kết quả UPR chu kỳ 2 (tổ chức ngày 2/4
tại Hà Nội), ông Hoàng Chí Trung, Vụ trưởng Vụ Các Tổ chức Quốc tế, Bộ
Ngoại giao, đã cho biết:“Khoảng 40 khuyến nghị ta cần cân nhắc thận trọng hoặc không thể chấp nhận”.
Các
khuyến nghị này, theo ông Trung nêu ra, là:
“tập trung vào một số lĩnh vực cụ thể như yêu cầu huỷ bỏ việc áp dụng
án tử hình; thả các đối tượng “bất đồng chính kiến” và ”người bảo vệ
nhân quyền”; thành lập Cơ quan nhân quyền quốc gia theo nguyên tắc
Paris; phê chuẩn Quy chế Rome về Toà án Hình sự quốc tế; sửa đổi các
Điều 79, 88, 258 của Bộ luật Hình sự; đưa ra lời mời ngỏ đến với tất cả
các thủ tục đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền; yêu cầu ta đón một số báo
cáo viên/ chuyên gia độc lập về những lĩnh vực nhạy cảm (tự do ngôn
luận, mất tích cưỡng bức, tự do báo chí...)”.
Và đó lại chính là các
khuyến nghị cụ thể, nhằm mục đích nới rộng và đảm bảo cho các quyền tự do chính trị.
Nuốt lời hứa “lập cơ quan nhân quyền quốc gia”
Đầu tiên, phải kể đến các khuyến nghị “Thành lập một cơ quan nhân quyền quốc gia độc lập theo Các
nguyên tắc Paris” (đến từ các quốc gia Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Congo, Madagascar, Togo, Tunisia) bị nhà nước Việt Nam bác bỏ.
Cần
phải nhắc lại rằng, vào tháng 11/2013, Việt Nam đã đệ trình lên UNHRC
một bản cam kết gồm 14 điểm nhằm vận động cho việc ứng cử vào chiếc ghế
thành viên UNHRC. Một trong 14 điểm đó là Việt Nam cam kết “có thể thành lập một cơ quan nhân quyền quốc gia”.
Thế nhưng giờ đây, chỉ 6 tháng sau khi trở thành thành viên UNHRC, nhà
nước Việt Nam lại bác bỏ các khuyến nghị thành lập cơ quan nhân quyền
quốc gia. Điều này cho
thấy: Ngay cả trên một diễn đàn quốc tế lớn, được chú ý và soi rọi chặt
chẽ, nhưng nhà nước Việt Nam cũng vẫn thể hiện một sự “thất hứa” lộ
liễu với cộng đồng quốc tế.
Nhất định không ký các nghị định thư tùy chọn
Tiếp theo, Việt Nam bác bỏ tất cả các khuyến nghị
về việc “phê chuẩn về các nghị định thư tùy chọn” theo
Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị; theo Công ước về các
quyền Kinh tế Văn hóa và Xã hội, theo Công ước Chống tra tấn, theo Công
ước Quyền trẻ em...
Tất
cả các công ước về nhân quyền trong hầu hết các lĩnh vực đều kèm theo
các nghị định thư. Một đặc trưng cơ bản của nghị định thư là quốc gia ký
kết phải thừa nhận thẩm quyền giải quyết khiếu tố của Ủy ban Giám sát
Công ước. Bất kỳ công dân của quốc gia nào là thành viên của Công ước,
và nếu quốc gia
đó đã ký nghị định thư công nhận thẩm quyền Ủy ban Giám sát Công ước,
thì đều có thể gửi đơn khiếu tố vi phạm nhân quyền và được Ủy ban Giám
sát Công ước tiếp nhận và giải quyết vụ việc.
Việt
Nam đã tham gia 7 trên 9 công ước cơ bản về nhân quyền, nhưng hiện nay
Việt Nam không phê chuẩn bất kỳ nghị định thư nào trong việc công nhận
thẩm quyền của Ủy ban Giám sát Công ước. Như vậy cho thấy, Việt Nam vẫn
xem nhân quyền như là “công việc nội bộ”, lẩn tránh các vụ việc vi phạm
nhân quyền ra trước cộng đồng quốc tế.
Qua
đây cũng xin bổ sung thêm tình hình công nhận thẩm quyền của các Ủy ban
Giám sát Công ước. Không chỉ UPR lần này mà trong kỳ UPR đầu tiên của
Việt Nam vào năm 2009, Việt Nam đã nhận rất nhiều khuyến nghị cần tham
gia Nghị định thư bổ sung của Công ước nhằm công nhận thẩm quyền cho Ủy
ban giám sát. Nhưng nhà nước Việt Nam luôn bác bỏ khuyến nghị này, với
lý do được đưa ra là công dân Việt Nam có thể áp dụng đến “quyền tài
phán quốc gia”, tức là công dân Việt Nam khi bị vi phạm nhân quyền có
thể gửi đơn khiếu tố đến các cơ quan hành chính và tư pháp ở Việt Nam để
xem xét và giải quyết vụ việc.
Trên
thực tế, với thiếu vắng nền tư pháp độc lập, tòa án Việt Nam khó lòng
xét xử các hành vi vi phạm nhân quyền khi chủ thể vi phạm lại chính là
nhà nước. Cho nên, dù có tham gia bao nhiêu công ước về nhân quyền,
nhưng không tham gia vào các Nghị định thư thừa nhận thẩm quyền của Ủy
ban Giám sát Công ước, thì sẽ không có bất kỳ sự can thiệp trực tiếp nào
từ bên ngoài nhằm chế tài nhà nước vi phạm nhân quyền.
Không cho Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ vào nước mình
Việt Nam cũng bác bỏ các khuyến nghị “Đưa ra mời lời mời ngỏ với tất cả các Thủ tục Đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền”.
Thủ tục Đặc biệt (Special
Procedures) thật ra là những chuyên gia, báo cáo viên độc lập về
nhân quyền, có chức năng báo cáo tình hình nhân quyền và tư vấn về cải
thiện nhân quyền cho mỗi quốc gia thành viên LHQ. Để làm được việc này,
họ có quyền đến thăm các nước, tiến hành các cuộc tiếp xúc ở nước đó để
khảo sát, tìm hiểu về thực trạng nhân quyền; tuy nhiên phải gửi thư đề
nghị trước và được chính phủ nước đó mời.
Hiện có rất nhiều quốc gia đưa ra lời mời ngỏ với tất cả các Thủ tục Đặc biệt của
Hội đồng Nhân quyền. Việc đưa ra lời
mời ngỏ này sẽ cho phép các chuyên gia, các báo cáo viên có thể vào
quốc gia đó bất kỳ lúc nào, cũng như có thể thực hiện chức năng giải
quyết các vụ việc vi phạm nhân quyền.
Thông
thường, các quốc gia có tình hình nhân quyền tốt được quốc tế đánh giá
cao thì luôn có sẵn thư mời ngỏ. Điều này cũng dễ hiểu vì “vàng thật thì
không sợ lửa”. Chỉ các quốc gia có tình hình nhân quyền bị đánh giá là
tồi tệ, muốn che giấu các vụ việc vi phạm nhân quyền thì mới không chào
đón các báo cáo viên Thủ tục Đặc biệt vào nước mình.
Những năm gần đây, Việt Nam cũng đã cho phép một số chuyên gia Thủ tục Đặc biệt đến
thăm. Tuy nhiên, họ đều không phải là những chuyên gia, báo cáo viên
trong các lĩnh vực “nhạy cảm”, mà chỉ là chuyên gia độc lập về các vấn
đề thiểu số (Gay McDougall, thăm Việt Nam từ 5-15/7/2010), chuyên gia
độc lập về tình trạng nghèo cùng cực (Magdalena S. Carmona,
23-31/8/2010), chuyên gia độc lập về tác động của nợ nước ngoài (Cephas
Lumina, 21-29/3/2011).
* * *
Việc
các khuyến nghị trên bị bác bỏ cho thấy nhà nước Việt Nam đã không tạo
điều kiện giải quyết các vi phạm nhân quyền. Điều đó cũng đồng nghĩa với
việc quốc tế không thể giúp Việt Nam nỗ lực hơn trong cải cách tư pháp,
hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ nhân quyền, cũng như gián tiếp gia
tăng sức ép để tòa án Việt Nam nâng cao năng lực.
Bên
cạnh đó, các cam kết UPR đã làm nổi bật lên sự thúc đẩy nhân quyền theo
kiểu đặc trưng của “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, đó là chấp
nhận mở rộng một số quyền tự do nhưng luôn bác bỏ các quyền tự do chính
trị.
Vì sao bác bỏ?
Trong phiên họp báo cáo kết quả UPR, vị đại diện Chính phủ Việt Nam cho biết lý do là“không phù hợp với đặc thù lịch sử, xã hội và văn hóa của Việt Nam”.
Có
thể nói, viện dẫn “đặc thù lịch sử, xã hội và văn hóa” là phép ngụy
biện cũ rích, không chỉ có nhà nước Việt Nam sử dụng, mà hầu hết các
quốc gia có tình hình nhân quyền tồi tệ cũng thường xuyên nhai đi nhai
lại trước cộng đồng quốc tế.
Pakistan là một quốc gia có
thành tích nhân quyền tồi tệ, trong phiên họp UPR đã khen ngợi thành
tích nhân quyền của Việt Nam. Cách đây mới chưa đầy một tháng, ở nước
này, cô Farzana Parveen - một phụ nữ đang mang thai - đã bị đánh đập và
ném đá đến chết bởi gia đình mình trước một tòa án tối cao Pakistan tại
Lahore hôm 27 tháng 5 vì tội đã dám kết hôn với người đàn ông mà cô yêu
thương, trái với sự dàn xếp của gia đình. Điều đáng nói là cảnh sát đã
thản nhiên đứng nhìn vụ giết người dã man này, và người cầm đầu trong
việc giết cô Farzana Parveen là cha ruột của cô, sau đó trình diện và
yêu cầu được miễn truy tố dựa theo luật Hồi giáo “giết người vì danh
dự”.
Mỗi
năm ở Pakistan có khoảng hơn 100 vụ giết người như vậy. Nhìn vào đó,
chúng ta cũng thấy nổi bật lên các yếu tố “đặc thù lịch sử, xã hội và
văn hóa”. Cả những kẻ giết người lẫn những người có trách nhiệm đều đã
làm ngơ trước tội ác, và hầu như không ai bị xử lý.
Do
đó, dùng lý do “không phù hợp với đặc thù lịch sử, xã hội và văn hóa
của Việt Nam” để đối phó với các khuyến nghị thúc đẩy và bảo vệ nhân
quyền là điều không thể chấp nhận
được. Mà lẽ ra, cần xác định rõ đặc thù lịch sử, xã hội, văn hóa hay
truyền thống nào đã hạn chế những giá trị nhân quyền phổ quát, để có thể
thay đổi chúng cho phù hợp, chứ không thể dùng nó để biện minh cho các
hạn chế và vi phạm nhân quyền.
“Ngoại giao nhân quyền”
Cũng
phải thừa nhận rằng các quốc gia phát biểu trong phiên họp UPR vừa qua
đã dành nhiều lời khen và chúc tụng cho nhà nước Việt Nam.
Nhưng cần xem lại: Các lời khen và chúc tụng này có xuất phát từ sự thực tâm, hay là vì “ngoại giao nhân quyền”?
Điều
nghịch lý là các quốc gia khen ngợi Việt Nam đều không phải là những
quốc gia có truyền thống và thành tích tôn trọng và bảo vệ nhân quyền,
mà đó hầu hết là các nước lâu nay vẫn bị thế
giới đánh giá là có tình hình nhân quyền rất tồi tệ, như CH Hồi giáo
Iran, CHDCND Lào, Morocco (Ma-rốc), Myanmar, Nigeria, Pakistan, Nga, Sri
Lanka, Sudan…
“Ngoại
giao nhân quyền” là một đặc điểm dễ thấy ở các phiên UPR đã qua. Các
quốc gia nhân quyền tồi tệ thường hay khen ngợi lẫn nhau, tính chất “có
qua có lại” theo kiểu “anh khen tôi lần này, thì tôi khen lại anh lần
sau” là một vấn đề đáng lên án.
Bên
cạnh đó, thái độ thù địch chính
trị đã ảnh hưởng đến chất lượng các phiên họp của UNHRC trong các quốc
gia có thành kiến với nhau, như Bắc Triều Tiên trong một phiên họp trước
Hội đồng nhân quyền vào đầu năm nay đã tố cáo Hoa Kỳ là “địa ngục trần
gian” và “người dân Hàn Quốc bị tước đoạt quyền tự do ngôn luận”.
Thủ thuật đối phó
Và
trong phiên UPR của Việt Nam vừa qua, các quốc gia bảo vệ nhân quyền
tốt, mang đến những tiếng nói thẳng thắn về nhân quyền, thì không có cơ
hội phát biểu.
Nhờ
Các Tiểu Vương quốc Ảrập Thống nhất (UAE) bỏ bài phát biểu, nên Hoa Kỳ
là quốc gia may mắn được lên tiếng cuối cùng, mang lại một ý kiến khác
biệt, nhưng lại trở nên “lạc lõng” với phần trình bày của các quốc gia
trước đó.
Sự
thiếu
vắng những tiếng nói phê phán và thẳng thắn đến từ các quốc gia không
phải là một sự việc ngẫu nhiên, mà nó là một sự sắp đặt, có tính toán.
Venezuela
trong phiên báo cáo kết quả UPR vào năm 2012 đã bị chỉ trích vì một số
thủ thuật “vận động hành lang”, dưới sự giúp sức của các nhà ngoại giao
Cuba, để xếp các quốc gia như Trung Quốc, Việt Nam, CuBa, Iran... được
ưu tiên phát biểu trước, “cướp diễn đàn” của những bên chỉ trích về tình
hình nhân quyền tồi tệ ở Venezuela.
Nếu
muốn thực hiện nguyên tắc hợp tác và đối thoại trong các thủ tục và cơ
chế nhân quyền của Liên Hợp Quốc, UNHRC sẽ phải hoàn thiện về cách làm
việc của mình trong thời gian tới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
ẢNH TRÊN: Từ trái qua: Tiến sĩ Nguyễn Quang A,
luật gia Trịnh Hữu Long, blogger Phạm Lê Vương Các (tác giả bài viết)
Phạm Lê Vương Các (VietNam UPR), 22/6/2014 -
Việt Nam chấp nhận 182 khuyến nghị UPR (khoảng 80%) và bác bỏ 45 khuyến
nghị (khoảng 20%) là điều không bất ngờ đối với những ai quan tâm đến
UPR. Điểm lại, có thể dễ nhận ra rằng, Nhà nước Việt Nam đã chấp nhận
hầu hết các khuyến nghị ít tranh cãi như quyền phụ nữ, quyền trẻ em, bảo
vệ nhóm người yếu thế, và mang xu hướng cải thiện đời sống dân sinh như
hướng đến mục tiêu Thiên Niên Kỷ của Liên Hiệp Quốc, cũng như chấp nhận
các khuyến nghị chung chung, không rõ ràng.
Trước
đó, trong Hội thảo Thông báo về kết quả UPR chu kỳ 2 (tổ chức ngày 2/4
tại Hà Nội), ông Hoàng Chí Trung, Vụ trưởng Vụ Các Tổ chức Quốc tế, Bộ
Ngoại giao, đã cho biết:“Khoảng 40 khuyến nghị ta cần cân nhắc thận trọng hoặc không thể chấp nhận”.
Các
khuyến nghị này, theo ông Trung nêu ra, là:
“tập trung vào một số lĩnh vực cụ thể như yêu cầu huỷ bỏ việc áp dụng
án tử hình; thả các đối tượng “bất đồng chính kiến” và ”người bảo vệ
nhân quyền”; thành lập Cơ quan nhân quyền quốc gia theo nguyên tắc
Paris; phê chuẩn Quy chế Rome về Toà án Hình sự quốc tế; sửa đổi các
Điều 79, 88, 258 của Bộ luật Hình sự; đưa ra lời mời ngỏ đến với tất cả
các thủ tục đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền; yêu cầu ta đón một số báo
cáo viên/ chuyên gia độc lập về những lĩnh vực nhạy cảm (tự do ngôn
luận, mất tích cưỡng bức, tự do báo chí...)”.
Và đó lại chính là các
khuyến nghị cụ thể, nhằm mục đích nới rộng và đảm bảo cho các quyền tự do chính trị.
Nuốt lời hứa “lập cơ quan nhân quyền quốc gia”
Đầu tiên, phải kể đến các khuyến nghị “Thành lập một cơ quan nhân quyền quốc gia độc lập theo Các
nguyên tắc Paris” (đến từ các quốc gia Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Congo, Madagascar, Togo, Tunisia) bị nhà nước Việt Nam bác bỏ.
Cần
phải nhắc lại rằng, vào tháng 11/2013, Việt Nam đã đệ trình lên UNHRC
một bản cam kết gồm 14 điểm nhằm vận động cho việc ứng cử vào chiếc ghế
thành viên UNHRC. Một trong 14 điểm đó là Việt Nam cam kết “có thể thành lập một cơ quan nhân quyền quốc gia”.
Thế nhưng giờ đây, chỉ 6 tháng sau khi trở thành thành viên UNHRC, nhà
nước Việt Nam lại bác bỏ các khuyến nghị thành lập cơ quan nhân quyền
quốc gia. Điều này cho
thấy: Ngay cả trên một diễn đàn quốc tế lớn, được chú ý và soi rọi chặt
chẽ, nhưng nhà nước Việt Nam cũng vẫn thể hiện một sự “thất hứa” lộ
liễu với cộng đồng quốc tế.
Nhất định không ký các nghị định thư tùy chọn
Tiếp theo, Việt Nam bác bỏ tất cả các khuyến nghị
về việc “phê chuẩn về các nghị định thư tùy chọn” theo
Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị; theo Công ước về các
quyền Kinh tế Văn hóa và Xã hội, theo Công ước Chống tra tấn, theo Công
ước Quyền trẻ em...
Tất
cả các công ước về nhân quyền trong hầu hết các lĩnh vực đều kèm theo
các nghị định thư. Một đặc trưng cơ bản của nghị định thư là quốc gia ký
kết phải thừa nhận thẩm quyền giải quyết khiếu tố của Ủy ban Giám sát
Công ước. Bất kỳ công dân của quốc gia nào là thành viên của Công ước,
và nếu quốc gia
đó đã ký nghị định thư công nhận thẩm quyền Ủy ban Giám sát Công ước,
thì đều có thể gửi đơn khiếu tố vi phạm nhân quyền và được Ủy ban Giám
sát Công ước tiếp nhận và giải quyết vụ việc.
Việt
Nam đã tham gia 7 trên 9 công ước cơ bản về nhân quyền, nhưng hiện nay
Việt Nam không phê chuẩn bất kỳ nghị định thư nào trong việc công nhận
thẩm quyền của Ủy ban Giám sát Công ước. Như vậy cho thấy, Việt Nam vẫn
xem nhân quyền như là “công việc nội bộ”, lẩn tránh các vụ việc vi phạm
nhân quyền ra trước cộng đồng quốc tế.
Qua
đây cũng xin bổ sung thêm tình hình công nhận thẩm quyền của các Ủy ban
Giám sát Công ước. Không chỉ UPR lần này mà trong kỳ UPR đầu tiên của
Việt Nam vào năm 2009, Việt Nam đã nhận rất nhiều khuyến nghị cần tham
gia Nghị định thư bổ sung của Công ước nhằm công nhận thẩm quyền cho Ủy
ban giám sát. Nhưng nhà nước Việt Nam luôn bác bỏ khuyến nghị này, với
lý do được đưa ra là công dân Việt Nam có thể áp dụng đến “quyền tài
phán quốc gia”, tức là công dân Việt Nam khi bị vi phạm nhân quyền có
thể gửi đơn khiếu tố đến các cơ quan hành chính và tư pháp ở Việt Nam để
xem xét và giải quyết vụ việc.
Trên
thực tế, với thiếu vắng nền tư pháp độc lập, tòa án Việt Nam khó lòng
xét xử các hành vi vi phạm nhân quyền khi chủ thể vi phạm lại chính là
nhà nước. Cho nên, dù có tham gia bao nhiêu công ước về nhân quyền,
nhưng không tham gia vào các Nghị định thư thừa nhận thẩm quyền của Ủy
ban Giám sát Công ước, thì sẽ không có bất kỳ sự can thiệp trực tiếp nào
từ bên ngoài nhằm chế tài nhà nước vi phạm nhân quyền.
Không cho Báo cáo viên Đặc biệt của LHQ vào nước mình
Việt Nam cũng bác bỏ các khuyến nghị “Đưa ra mời lời mời ngỏ với tất cả các Thủ tục Đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền”.
Thủ tục Đặc biệt (Special
Procedures) thật ra là những chuyên gia, báo cáo viên độc lập về
nhân quyền, có chức năng báo cáo tình hình nhân quyền và tư vấn về cải
thiện nhân quyền cho mỗi quốc gia thành viên LHQ. Để làm được việc này,
họ có quyền đến thăm các nước, tiến hành các cuộc tiếp xúc ở nước đó để
khảo sát, tìm hiểu về thực trạng nhân quyền; tuy nhiên phải gửi thư đề
nghị trước và được chính phủ nước đó mời.
Hiện có rất nhiều quốc gia đưa ra lời mời ngỏ với tất cả các Thủ tục Đặc biệt của
Hội đồng Nhân quyền. Việc đưa ra lời
mời ngỏ này sẽ cho phép các chuyên gia, các báo cáo viên có thể vào
quốc gia đó bất kỳ lúc nào, cũng như có thể thực hiện chức năng giải
quyết các vụ việc vi phạm nhân quyền.
Thông
thường, các quốc gia có tình hình nhân quyền tốt được quốc tế đánh giá
cao thì luôn có sẵn thư mời ngỏ. Điều này cũng dễ hiểu vì “vàng thật thì
không sợ lửa”. Chỉ các quốc gia có tình hình nhân quyền bị đánh giá là
tồi tệ, muốn che giấu các vụ việc vi phạm nhân quyền thì mới không chào
đón các báo cáo viên Thủ tục Đặc biệt vào nước mình.
Những năm gần đây, Việt Nam cũng đã cho phép một số chuyên gia Thủ tục Đặc biệt đến
thăm. Tuy nhiên, họ đều không phải là những chuyên gia, báo cáo viên
trong các lĩnh vực “nhạy cảm”, mà chỉ là chuyên gia độc lập về các vấn
đề thiểu số (Gay McDougall, thăm Việt Nam từ 5-15/7/2010), chuyên gia
độc lập về tình trạng nghèo cùng cực (Magdalena S. Carmona,
23-31/8/2010), chuyên gia độc lập về tác động của nợ nước ngoài (Cephas
Lumina, 21-29/3/2011).
* * *
Việc
các khuyến nghị trên bị bác bỏ cho thấy nhà nước Việt Nam đã không tạo
điều kiện giải quyết các vi phạm nhân quyền. Điều đó cũng đồng nghĩa với
việc quốc tế không thể giúp Việt Nam nỗ lực hơn trong cải cách tư pháp,
hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ nhân quyền, cũng như gián tiếp gia
tăng sức ép để tòa án Việt Nam nâng cao năng lực.
Bên
cạnh đó, các cam kết UPR đã làm nổi bật lên sự thúc đẩy nhân quyền theo
kiểu đặc trưng của “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, đó là chấp
nhận mở rộng một số quyền tự do nhưng luôn bác bỏ các quyền tự do chính
trị.
Vì sao bác bỏ?
Trong phiên họp báo cáo kết quả UPR, vị đại diện Chính phủ Việt Nam cho biết lý do là“không phù hợp với đặc thù lịch sử, xã hội và văn hóa của Việt Nam”.
Có
thể nói, viện dẫn “đặc thù lịch sử, xã hội và văn hóa” là phép ngụy
biện cũ rích, không chỉ có nhà nước Việt Nam sử dụng, mà hầu hết các
quốc gia có tình hình nhân quyền tồi tệ cũng thường xuyên nhai đi nhai
lại trước cộng đồng quốc tế.
Pakistan là một quốc gia có
thành tích nhân quyền tồi tệ, trong phiên họp UPR đã khen ngợi thành
tích nhân quyền của Việt Nam. Cách đây mới chưa đầy một tháng, ở nước
này, cô Farzana Parveen - một phụ nữ đang mang thai - đã bị đánh đập và
ném đá đến chết bởi gia đình mình trước một tòa án tối cao Pakistan tại
Lahore hôm 27 tháng 5 vì tội đã dám kết hôn với người đàn ông mà cô yêu
thương, trái với sự dàn xếp của gia đình. Điều đáng nói là cảnh sát đã
thản nhiên đứng nhìn vụ giết người dã man này, và người cầm đầu trong
việc giết cô Farzana Parveen là cha ruột của cô, sau đó trình diện và
yêu cầu được miễn truy tố dựa theo luật Hồi giáo “giết người vì danh
dự”.
Mỗi
năm ở Pakistan có khoảng hơn 100 vụ giết người như vậy. Nhìn vào đó,
chúng ta cũng thấy nổi bật lên các yếu tố “đặc thù lịch sử, xã hội và
văn hóa”. Cả những kẻ giết người lẫn những người có trách nhiệm đều đã
làm ngơ trước tội ác, và hầu như không ai bị xử lý.
Do
đó, dùng lý do “không phù hợp với đặc thù lịch sử, xã hội và văn hóa
của Việt Nam” để đối phó với các khuyến nghị thúc đẩy và bảo vệ nhân
quyền là điều không thể chấp nhận
được. Mà lẽ ra, cần xác định rõ đặc thù lịch sử, xã hội, văn hóa hay
truyền thống nào đã hạn chế những giá trị nhân quyền phổ quát, để có thể
thay đổi chúng cho phù hợp, chứ không thể dùng nó để biện minh cho các
hạn chế và vi phạm nhân quyền.
“Ngoại giao nhân quyền”
Cũng
phải thừa nhận rằng các quốc gia phát biểu trong phiên họp UPR vừa qua
đã dành nhiều lời khen và chúc tụng cho nhà nước Việt Nam.
Nhưng cần xem lại: Các lời khen và chúc tụng này có xuất phát từ sự thực tâm, hay là vì “ngoại giao nhân quyền”?
Điều
nghịch lý là các quốc gia khen ngợi Việt Nam đều không phải là những
quốc gia có truyền thống và thành tích tôn trọng và bảo vệ nhân quyền,
mà đó hầu hết là các nước lâu nay vẫn bị thế
giới đánh giá là có tình hình nhân quyền rất tồi tệ, như CH Hồi giáo
Iran, CHDCND Lào, Morocco (Ma-rốc), Myanmar, Nigeria, Pakistan, Nga, Sri
Lanka, Sudan…
“Ngoại
giao nhân quyền” là một đặc điểm dễ thấy ở các phiên UPR đã qua. Các
quốc gia nhân quyền tồi tệ thường hay khen ngợi lẫn nhau, tính chất “có
qua có lại” theo kiểu “anh khen tôi lần này, thì tôi khen lại anh lần
sau” là một vấn đề đáng lên án.
Bên
cạnh đó, thái độ thù địch chính
trị đã ảnh hưởng đến chất lượng các phiên họp của UNHRC trong các quốc
gia có thành kiến với nhau, như Bắc Triều Tiên trong một phiên họp trước
Hội đồng nhân quyền vào đầu năm nay đã tố cáo Hoa Kỳ là “địa ngục trần
gian” và “người dân Hàn Quốc bị tước đoạt quyền tự do ngôn luận”.
Thủ thuật đối phó
Và
trong phiên UPR của Việt Nam vừa qua, các quốc gia bảo vệ nhân quyền
tốt, mang đến những tiếng nói thẳng thắn về nhân quyền, thì không có cơ
hội phát biểu.
Nhờ
Các Tiểu Vương quốc Ảrập Thống nhất (UAE) bỏ bài phát biểu, nên Hoa Kỳ
là quốc gia may mắn được lên tiếng cuối cùng, mang lại một ý kiến khác
biệt, nhưng lại trở nên “lạc lõng” với phần trình bày của các quốc gia
trước đó.
Sự
thiếu
vắng những tiếng nói phê phán và thẳng thắn đến từ các quốc gia không
phải là một sự việc ngẫu nhiên, mà nó là một sự sắp đặt, có tính toán.
Venezuela
trong phiên báo cáo kết quả UPR vào năm 2012 đã bị chỉ trích vì một số
thủ thuật “vận động hành lang”, dưới sự giúp sức của các nhà ngoại giao
Cuba, để xếp các quốc gia như Trung Quốc, Việt Nam, CuBa, Iran... được
ưu tiên phát biểu trước, “cướp diễn đàn” của những bên chỉ trích về tình
hình nhân quyền tồi tệ ở Venezuela.
Nếu
muốn thực hiện nguyên tắc hợp tác và đối thoại trong các thủ tục và cơ
chế nhân quyền của Liên Hợp Quốc, UNHRC sẽ phải hoàn thiện về cách làm
việc của mình trong thời gian tới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
ẢNH TRÊN: Từ trái qua: Tiến sĩ Nguyễn Quang A,
luật gia Trịnh Hữu Long, blogger Phạm Lê Vương Các (tác giả bài viết)
luật gia Trịnh Hữu Long, blogger Phạm Lê Vương Các (tác giả bài viết)
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen