Hôm nay chúng ta cùng đến
với nhau để hướng nhìn về quê nhà mà chúng ta
vì lý do này hay lý do
khác đã phải tử bỏ ra đi trước đây đã 40 năm và mãi
cho đến hôm nay vẫn còn
có người dân phải bỏ nước ra đi tìm sự sống mới.
Nguyên nhân sâu xa của
cuộc cuộc di tàn vĩ đại trong thế kỷ vừa qua là ở
Hiệp-định Geneve chia đôi đất nước ta mà đảng CSVN dưới sự chỉ đạo của
đảng CS Trung Quốc đã ký
kết với chính quyền Pháp vào tối ngày 20.07.1954.
Những câu hỏi mà mọi
người Việt chúng ta sẽ phải đặt ra là :
- nguyên nhân nào đã đưa các bên tham chiến
ngồi vào bàn hội-nghị
-
chủ-trương của các phe phái trong khi đàm phán
-
nội-dung chính của bản Hiệp-định đình chiến
-
sự thi-hành bản Hiêp-định ra sao
-
hậu quả của Hiệp-định Geneve đối với dân tộc
Việt-Nam.
Hội nghị này thoạt đầu
không phải là để giải-quyết vấn-đề Đông-Dương (Việt-Nam,
Lào và Cam-pu-Chia) mà là để giải quyết vấn-đề chiến-tranh Triều Tiên (Hàn Quốc).
Nhằm giảm bớt sự căng
thẳng của cuộc chiến Triều Tiên , vào ngày 28.11.1953
Nga-Sô đề nghị với
Hoa-Kỳ , Pháp và Anh-Quốc cùng với Trung-Quốc ngồi vào bàn
hội-nghị để tìm một
giải-pháp hòa-bình. Đây cũng là
ước nguyện của Trung Quốc
vì từ sau khi Mao Trạch
Đông dành lấy được chính-quyền vào tháng 10.1949, đây
là cơ-hội đầu tiên mà
Trung Quốc được ngồi thương thảo với các cường quốc của
đệ nhị thế-chiến,
Hoa-Kỳ, Nga-Sô, Anh và Pháp. Sau khi
trận chiến Điện-Biên-Phủ kết-thúc vào tháng 03.1954 thì vấn-đề Đông-Dương mới được đưa thêm
vào chương-trình nghị-sự và Hội-Nghị chính thức bắt đầu vào ngày 26.04.1954 với sự tham-dự của Hoa-Kỳ ( ông Bedell Smith làm trưởng đoàn), Anh-Quốc (ông Anthony Eden),
Pháp ( ông Georges Bidault)
,Nga-Sô (ông Vlacheslav Molotov),
Trung-Quốc (ông Chu-Ân-Lai),
Việt-Minh (ông Phạm văn Đồng), Quốc-Gia Việt-Nam (ông Nguyễn Quốc Định, sau
được thay bởi ông Nguyễn Trung Vinh và sau cùng là ông Trần văn Đỗ), Lào (ông Phumi Sananikone), Campuchia (ông Tep Than).
Mặc dù ông Hồ-chí-Minh
đã tuyên bố thành lập nước VNDCCH sau cuộc đảo chính vào tháng 08.1945 (mà sau này đảng CS gọi là cách-mạng tháng 08) lật đổ chính-phủ độc lập đầu tiên của nước
Việt-Nam do ông Trần Trọng Kim làm
Thủ-Tướng từ ngày 09.03.1945, ngày mà Nhật - đồng
minh của Đức Quốc xã - trả lại
độc lập cho Việt Nam sau khi sang
nước ta giải giới quân đội Pháp , VNDCCH chỉ là một
tổ-chức võ trang có chiếm đóng được một vài vùng đất nhưng không có
lãnh-thổ và biên giới rõ rệt nên chưa thể gọi là một quốc gia.
Sau này dưới sự áp lực của Hoa-Kỳ, các quốc-gia như Anh Quốc và Pháp
đã dần
dần phải từ bỏ chế độ
thuộc địa và trả độc lập lại cho các quốc gia trước đây là
thuộc địa của mình (Anh Quốc đã phải trả độc lập cho Ấn Độ vào năm
1948 và cũng vào năm ấy Pháp đã phải trả độc lập cho Việt Nam ) và thành lập các khối đồng minh về kinh-tế : nước Anh có British Commonwealth và nước Pháp có
Union Francaise (tức Liên Hiệp Pháp).
Hoa-Kỳ không hề ủng hộ
chế độ thuộc-địa bởi vì chính quốc gia Hoa Kỳ là một hiệp-chủng
quốc gồm nhiều sắc tộc khác nhau nên Hiến Pháp của Hoa-Kỳ không chấp nhận sắc tộc này ngự trị trên
sắc tộc khác. Như thế, lập luận cho rằng Hoa-Kỳ muốn tiếp nối
Pháp để duy trì chế-độ thuộc địa tại Việt-Nam là không đúng sự
thật.
Vào ngày 05.06.1948 cao ủy Pháp là ông Emile Bollaert đã ký
với cựu
Hoàng Bảo-Đại một thông
cáo chung tại vịnh Hạ-Long công nhận nền độc lập của
Việt-Nam và từ đó
Quốc Gia Việt-Nam ra đời với cựu Hoàng Bảo Đại một lần nữa làm
Quốc Trưởng và lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam gồm cả Nam, Trung và Bắc
kỳ thống nhất với lá cờ vàng và ba sọc đỏ đã có từ thời của hai
vị vua yêu nước là vua Thành-Thái và con của ông là vua Duy Tân (1890) làm biểu tượng cho Tổ-Quốc Việt Nam.
Vì có tư tưởng chống
thực-dân Pháp nên hai vị vua này đã bị Phạp bắt đài sang đảo
La Reunion tận miền Nam
Châu Phi và lá cờ vàng không được sử-dụng mà người
dân chỉ được treo cờ tam
sắc của Pháp trong những dịp lễ lọc.
Vậy thì, khi đảng CSVN
tuyên truyền rằng họ đánh Pháp để dành độc lập là không
đúng sự thật vì nước ta
một lần nữa đã được trả lại chủ
quyền từ năm 1948. Đúng hơn phải nói là đảng CSVN đã xin cầu viện
từ Nga Sô và Trung Quốc và không ngần ngại hy sinh máu xương của nhân
dân Việt Nam để đánh phá nền độc lập còn non trẻ của nước nhà với mục đích áp đặt chủ nghĩa cộng sản
trên cả nước.
(Ở đây tôi cũng xin được mở ngoặc nói qua về lá cờ biểu tượng cho
Tồ-Quốc, vì
dây cúng là một vấn đề làm mất tình
đoàn kết trong lòng dân tộc)
Một đất nước thống nhất chỉ có thể có một lá cờ để biểu tượng cho Tổ-Quốc.
Hịên nay mặc dù lãnh thổ đã thống nhất nhưng nhân dân
Việt-Nam vẫn chưa thống nhất và vẫn bị phân chia giữa hai màu cờ: cờ đỏ sao vàng và cờ vàng với ba sọc đỏ.
Cờ vàng có từ thời vua
Thành Thái nhà Nguyễn và được đệ nhất và đệ nhị cộng hòa của
miền Nam Việt Nam dùng làm biểu tưởng cho Tổ-Quộc còn cờ đỏ chỉ
mới có từ năm 1945 do đảng CSVN du nhập từ lá
cờ của tỉnh Phúc-Kiến bên Trung Hoa được dùng từ năm 1930 đến 1933. Tình Phúc Kiến nằm phía Đông Nam của Trung Quốc.
Ngoài ra lá cờ đỏ sao
vàng cũng còn được Trung Quốc sử
dụng làm biểu tượng cho hướng-đạo Trung Quốc. Và ngay cả lá cờ nửa xanh nửa đỏ, chính giữa là
ngôi sao vàng mà đảng CSVN sử dụng làm cờ hiệu cho MTGPMN cũng là cờ
chính thức của tỉnh Phúc-Kiến kể từ năm 1933 cho đến nay. Cả hai lá cờ mà đảng CSVN sử dụng làm cờ Tổ-Quốc cho
Việt-Nam và cờ hiệu cho MTGPMN đều
có xuất xứ từ Trung Quốc. Như vậy chúng ta có thể nào chấp nhận
một màu cờ của Trung Quốc làm
cờ cho Tổ Quốc của
chúng ta hay không ?
Nước Nga sau khi giải thể
chế độ CS cũng đã từ bỏ lá cờ đỏ với cây búa lưỡi liềm
và lấy lại lá cờ trắng
xanh đỏ của thời Nga Hoàng làm cờ Tổ-Quốc.
Thiết nghĩ chúng ta là
người Việt có một dòng lịch sử từ thời vua Hùng Vương đến
các triều đại Đinh, Lê,
Lý, Trần và cuối cùng là nhà Nguyễn đã có công dựng nước,
giữ nước và đã bao lần
chống sự xăm lăng từ phương Bắc để người dân Việt còn có một mảnh
đất để sống và một tiếng Việt để nói , thì chúng ta cũng nên chọn lá
cờ
của tiền nhân chớ không
lý do gì lấy cờ của Trung Quốc làm cờ Tổ-Quốc.
Trở lại vấn đề của
Hiệp-định đình chiến Geneve, tính đến đầu năm 1950 Quốc Gia Việt-Nam đã được 35 quốc-gia công nhận trong lúc VNDCCH do ông Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập
vào ngày 02.09.1945 sau khi cướp chính quyền chưa
được một quốc-gia nào thừa nhận, ngoại trừ Trung Quốc và Nga-Sô.
Tháng 10
năm 1949 , Mao Trạch Đông
cướp được chính quyền tại Trung Quốc
thì 3 tháng sau, đầu năm 1950 ông Hồ Chí Minh đã sang Bắc
Kinh gặp Mao Trạch Đông để xin cầu viện quận sự nhằm đánh phá nền
độc lập còn non trẻ của Quốc Gia
Việt Nam với mục-đích biến Việt Nam thành tiền đồn của CS Quốc Tế
tại Đông Dương.
Hành-động này của Hồ chí Minh chẳng khác nào hành vi của Lê chiêu
Thống
sang cầu viên nhà Thanh
với mục-đích cổng rắn cắn gà nhà. Đáp ứng lời xin cầu viện này,
họ Mao cử cố-vấn quân sự là Lã quý Ba sang Việt-Nam để điều nghiên
tình hình chiến sự . Vào tháng 07
năm 1950 , Mao Trạch Đông đồng ý tiếp viện
cho Việt Nam và gửi Đại tướng Trần Canh cùng 14 tướng tá Trung Quốc sang Việt Nam để huấn luyện
quân sự cho quân đội của đảng CSVN. Đến khi trận chiến
Điện Biên Phủ bùng nổ vào tháng 03
năm 1954 thì số lượng tướng lãnh Trung Cộng tại Việt-Nam
đã lên đến hơn 50 người. Vậy thì trận
chiến Điện Biên Phủ không phải
chỉ do Tướng Võ Nguyên
Giáp mà do các tướng lãnh Trung
Quốc chỉ huy.
Kề từ khi được viện trợ
quân sự từ Trung Quốc, chiến tranh lại bùng nổ khốc liệt trên quê
hương nhất là tại miền Bắc. Quốc Gia Việt Nam lúc ấy mới được thành
lập nên chưa có quân đội tác chiến và vì thế quân đội Pháp đã phải
đứng ra để chống lại những đánh phá của quân đội CSVN.
Theo tài-liệu của phiá
Trung Quốc, trong vòng bốn năm từ 1950
đến 1954, họ đã viện trợ cho quân đội CSVN 116.000 súng cá nhân và 4.630 đại bác, trang bị đầy đủ cho năm sư-đoàn bộ binh, một sư-đoàn
pháo binh và công binh, một trung đoàn phòng không và một trung đoàn
phòng vệ.
Để không quên ơn mưa móc
này của Trung Cộng nên trong buổi thuyết trình về tình hình biển Đông
vào tháng 12 năm 2012 tại Hà-Nội trước cử tọa là các giáo sư
đại học với mục đích răn đe những vị giáo sư này không được phép cho
các sinh viên biểu tình chống Trung Quốc xăm phạm biển đảo của
Việt-Nam, đại tá Trần Đăng Thanh, giảng-nghiệm viên thuộc Bộ Quốc
Phòng Việt-Nam đã dõng dạt tuyên bố, nguyên văn như sau : " chúng ta không được vong ơn bội nghĩa đối
với Trung Quốc vì họ đã nhường cơm xẻ áo cho chúng ta, chia cho chúng
ta từng hạt gạo, từng đôi dẹp và từng khẩu súng". Cụm từ "vọng ơn bội nghĩa" thường chỉ được sử dụng cho mẹ cha và tổ
tiên nhưng đảng CSVN đã sử dụng đối với Trung Quốc thì thử hỏi sự nô
lệ trong tư-duy đã ăn sâu vào trong tâm não của họ đến mức nào ?
Việt Nam dưới chính
quyền CS đã trở thành một đứa con ngoan của Trung Quốc.
Cũng vì ơn mưa móc này
mà đảng CSVN đã phải tuân thủ theo những yêu cầu của
Trung Quốc và nhất là trong quyết-định chia đôi đất nước
Việt Nam tại Hội nghị Geneve theo mô hình của Đức Quốc và Hàn
Quốc. Sự lệ thuộc vào Trung Quốc của chính quyền
CSVN có thể nói là đã bắt đầu từ
đây và kéo dài mãi cho đến ngày hôm nay.
Vì thế , chúng ta cũng
không lấy gì làm ngạc nhiên trước sự việc chính quyền CSVN đã nhượng
biển đảo và những phần đất vùng biên giới Hoa-Việt cho Trung Quốc
trong thời-gian gần đây.
Ngược lại, trong suốt hội nghị Geneve này, Quốc Gia Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
thủ-tướng Ngô Đình Diệm - ông nhậm chức từ ngày 16.06.1954 - đã kịch liệt phản đối
không ký vào Hiệp-định này vì không chấp nhận giải pháp chia đôi đất
nước.
Ngoại trưởng Trần Văn
Đỗ, đại diện cho Quốc Gia Việt Nam tại Hội-Nghị, đã ra một
tuyên bố nguyên văn như sau
:
"Việc ký hiệp định giữa Pháp và Việt Minh có những
điều khoản gây nguy hại nặng nề
cho tương lai chính trị
của Quốc Gia Việt Nam. Hiệp định đã nhường cho Việt Minh
những vùng mà quân đội
Quốc Gia còn đóng quân vả tước mất của Việt Nam
quyền tổ-chức phòng
thủ. Bộ Tư lệnh Pháp đã tự ấn định ngày tổ chức tuyển cử
mà không có sự thỏa
thuận với phái đoàn Quốc Gia Việt Nam...
chính phủ Việt Nam yêu
cầu Hội Nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam
long trọng phản đối cách
ký hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng
nguyện vọng sâu xa của
dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận
rẳng Chính phủ tự dành
cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ
quyền thiêng liêng của dân
tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống Nhất,
Độc Lập và Tự Do cho xứ
sở." (hết trích).
Và ngay sau khi Hiệp-định được Pháp và
đảng CSVN ký kết vào tối ngày 20.07.1954, Thủ-Tướng Ngô Đình
Diệm ra lệnh toàn quốc phiá Nam vĩ tuyến 17 treo cờ rủ ba ngày nhằm để tang cho ngày đau buồn của
Tổ-Quốc.
Lập luận của CSVN cho
rằng miền Nam Việt-Nam, tức Quốc-Gia Việt-Nam và sau này là Việt-Nam
Cộng-Hòa đã xé hiệp-định Geneve
vì không chịu tổ-chức tổng tuyển cử
để thống nhất đất
nước là hoàn toàn không căn cứ vì
hai lý do :
Thứ nhất về mặt pháp lý ,VNCH không hề ký kết bất kỳ
một điều khoản nào trong hiệp-định Geneve này nên
không bị ràng buộc.
Thứ hai trong Hiệp-định này không có một điều khoản nào
quy-định chi tiết về
thời-điểm và cách thức về việc tổ-chức tổng-tuyển cử thống nhất
hai miền Nam Bắc Việt-Nam, duy chỉ có vỏn
vẹn ở điều 7 trong một bản tuyên bố
cuối cùng được soạn thảo gấp rút vào ngày hôm sau, tức ngày 21.07.1954 và không được phê chuẩn
nên không có giá trị về
mặt pháp lý, có nguyên văn như sau :
" hội nghị tuyên bố giải
pháp cho những
vấn đề chính trị ở Việt-Nam dựa
trên cơ-sở tôn trọng độc lập, thống-nhất và toàn vẹn lãnh thổ sẽ
cho phép người dân Việt-Nam được
hưởng nền tự do cơ bản thông qua kết quả tổng tuyển cử tự do sẽ được tổ-chức tháng 07/1956.".
Mặc dù vậy, chính phủ
VNCH, lúc đó dưới sự lãnh đạo của TT Ngô Đình Diệm, vẫn
chủ-trương thống nhất đất nước trên cơ-sở đàm phán và hòa bình chớ
không dùng võ lực, với điều kiện tiên quyết là chính-quyền CS miền
Bắc phải tôn trọng quyền Tự Do Dân Chủ của người dân, trước hết phải
chấm dứt những biện pháp đấu tố giết hại gần nửa triệu nhân dân miền Bắc trong cuộc cải cách ruộng đất. Ông đã chính thức tuyên bố :" chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển
cử
tự do để thống nhất đất
nước một cách hòa bình và dân chủ nhưng chúng tôi
nghi ngờ về việc có thể
bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc".
(hết trích)
Còn về phía
CSVN, Hiệp-định Genève đã được thi hành này
ra sao ?
1)
Chương I quy định quyền tự-do định cư của người dân cả
hai miền Nam
Bắc,
không bên
nào được quyền ngăn cản. Mặc dù miền Bắc đã dùng nhiều
biện pháp đe dọa không cho người dân di cư
vào Nam nhưng số lượng
người di cư vào trong Nam
ban đầu ước lượng chỉ vài trăm nghìn người
nhưng cuối cùng đã lên đến hơn một triệu người.
2)
Chương II
của hiệp-định quy định việc rút quân của mỗi bên : quân đội Pháp
rút quân về
dưới vĩ tuyến 17 và quân đội CSVN phải
rút toàn bộ lực-lượng vũ
trang của họ về phía Bắc của vĩ tuyến này. Nhưng
trên thực tế CSVN đã để lại
miền Nam
Việt-Nam ít nhất là 10.000 quân và chôn giấu lại vũ
khí tại những
nơi dưới quyền kiểm soát của họ trước đây.
(điều này cũng được đại tá CS và nhà báo
Bùi Tín xác nhận và ông cũng là
một trong những người đầu
tiên được đưa vào miền Nam bằng đường rừng
với nhiệm vụ thiết lập
thêm và chỉnh đốn những cơ sở quân sự đã có tại
miền Nam Việt Nam trước khi
Hiệp-định Geneve ra đời).
3) Chương III của hiệp-định quy định cấm việc đưa thêm
vào vùng kiểm sóat
của mình những toán quân,
nhân viên quân đội , vũ khí, đạn dược, thiết lập
căn cứ quân sự mới.
Nhưng CSVN vẫn tăng cường nhận
viện trợ quân sự từ Nga-Sô và Trung-
Cộng nhằm phục hồi lại
quân đội đã bị thất thoát nặng nề trong trận Điện
Biên Phủ và chuẫn bị cho
cuộc chiến tranh thôn tính miền Nam Việt Nam
sau này.
Trước sự chính thức
thành lập MTGPMN vào tháng 12.1960 tại Hà Nội nhằm tăng
cường những hoạt động đánh phá trong miền Nam, chính phủ của TT Ngô
Đình Diệm đành phải nhờ vào sự viện trợ quân sự của Hoa-Kỳ để bảo
vệ miền Nam Việt-Nam.
Và mãi 5 năm sau, vào năm 1965, Hoa Kỳ mới chính thức tham chiến tại Việt Nam
với mục đích ngăn chặn
làn sóng CS tại Đông Dương chớ không phải để thay thế
Pháp biến Việt Nam thành
thuộc địa kiểu mới như chúng ta thường được nghe
tuyên truyền hoặc giảng
dạy tại nhà trường.
Quyết-định chia đôi dất
nước của đảng CSVN và Trung Quốc ở hội-nghị
Geneve năm 1954 đã đưa đến cuộc chiến tranh tàn khóc và ô nhục nhất trong
lịch sử hiện đại của
nước nhà mà người Việt đã tàn sát người Việt bằng súng đạn của
Quốc Tế CS và đã gây một hố sâu hận thù mãi đến ngày hôm nay vẫn
không lấp lại được.
Hố sâu hận thù lại được
đảng CSVN đào sâu thêm trong dịp tổ chức diền hành
quân đội vào ngày
30.04.2015 tại SàiGòn, khi Thủ Tướng Nguyển Tấn Dũng
long trong tuyên bố ăn
mừng ngày "giải phóng miền Nam" chống "ngụy quân
ngụy quyền". Thế thì làm thế nào thực hiện được hòa
giải hòa hợp dân tộc?
Nếu thực tâm muốn tạo sự đoàn kết xóa bỏ hận thù thì trước
hết trong tư duy phải không còn kẻ thắng người thua , ngày 30.04 không được ăn mừng như một ngày chiến thắng, cụm từ "giải phóng miền Nam" hay "ngụy quân ngụy quyền" không còn được phép sử dụng vì nó không thể
hiện đúng sự thật. Trước khi chiến tranh bùng nổ, nhân dân miền Nam
đang được sống trong thanh bình và
chẳng bao giờ cần được " giải phóng" để cuối
cùng phải bỏ nước chạy ra biển khơi.
Trên cơ sở đó, đất nước sẽ phải cần có một thể-chế
dân chủ đa nguyên mà mọi người dân
đều có quyền góp phần trong một hiến-pháp do chính những người thực
sự đại diện cho mình soạn
thảo, chớ không phải là sản phẩm
của một đảng độc tôn độc quyền.
Chiến tranh ô nhục vừa
qua, chỉ vì mục đích áp đặt một chủ nghĩa CS không tưởng
mà cả thế giới đều đã
chối bỏ, đã sát hại hàng triệu người mang dòng máu
Việt.
Với tội ác có một không hai trong lịch-sử của dân tộc, đảng CSVN
có còn đủ tư cách để đại diện cho dân tộc ta nữa hay không ?
Đã đến lúc tuổi trẻ
Việt-Nam cần phải dũng cảm ngước mặt nhìn thẳng vào sự thật để
phân định rõ ai là kẻ đã gây ra tội ác đối với dân tộc Việt-Nam và nhất quyết
không ủng hộ tội ác và
gian trá , phải biết đặt quyền lợi của dân tộc trên mọi thứ chủ
nghĩa. Chúng ta không được phép
có thái-độ vô cảm,
sợ hãi trước mọi thủ đoạn
răn đe, bất bớ, tù đày để rồi phải đồng lõa dưa đân tộc vào gông nô lệ của tập đoàn
bành trướng phương Bắc.
Hy vọng rằng sự trình
bày và những lời tâm huyết trên đây sẽ mang lại cho mỗi người Việt
chúng ta sự suy tư nhằm trút bỏ mọi mặc cảm , mọi thành kiến mà can
đảm cùng nhau đứng về phía sự thật của lịch-sử. Có như thế, chúng
ta mới có thể đoàn kết thành một dân tộc vững mạnh và mọi người
trong cũng như ngoài nước sẽ hết lòng góp sức đưa đất nước Việt vươn lên không thua các
quốc-gia tiên tiến trên thế giới.
Xin chân thành cảm ơn quý
vị và các bạn.
Duy Việt (Cộng Hòa Liên Bang Đức Quốc)
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen