Luật Sư
NGUYỄN HỮU
THỐNG
Trong
tuần qua Luật
Sư Nelson Mandela
Nguyên Tổng Thống Nam Phi đã ra người thiên cổ. Ông sinh năm 1918 khi Thế Chiến
I kết thúc. Ông tốt nghiệp Trường Đại Học Luật Khoa Nam Phi năm 24 tuổi. Mười
năm sau, năm 34 tuổi ông đứng ra phụ trách Đoàn Thanh Niên trong Liên Đoàn
Quốc Gia Châu Phi để khởi sự đấu tranh cho độc lập tự do, nhân quyền chống chế
độ Kỳ Thị Chủng Tộc. Ông bị kết án tù chung thân năm 44 tuổi. Sau gần 28 năm bị
cầm tù. Ông được phóng thích năm 1990 khi vừa quá tuổi thất thập cổ lai hi (72
tuổi). Ba năm sau, năm 75 tuổi, cùng với Tổng Thống Nam Phi De Klerk người Anh,
ông được trao tặng Giải Nobel Hòa Bình. Qua năm sau ông đắc cử Tổng Thống Nam
Phi vào tuổi 76. Ngay từ giai đoạn bị giam giữ tù đầy ông cam kết sẵn sàng hy
sinh đến hơi thở cuối cùng (trên thực tế ông đã đạt tới tuổi đại thọ 95). Mục
tiêu tranh đấu trong 7 thập niên là thâu hồi tự
do dân chủ cho người dân đồng
thời quảng bá nghĩa bình đẳng bác ái cho đồng bào và đồng chủng theo tôn chỉ
“người
trong bốn biển đều là anh chị em”.
Ông
chủ trương mỗi công dân đấu tranh cho tự do nhân quyền là một viên gạch xây dựng
thành trì Dân Chủ và Nhân Quyền. Trong thời gian bị giam cứu ông vẫn âm thầm
thương nghị để thuyết phục phe Kỳ Thị Chủng Tộc thay đổi lập trường và thái độ.
Rốt cuộc năm 76 tuổi ông được quốc dân tín nhiệm bầu làm Tổng Thống để lãnh đạo
và giải thể chế độ Kỳ Thị Chủng Tộc.
Ba
tuần trước đây tại Nam Cali, Luật
Sư Trần Danh San
cũng ra người thiên cổ. Anh sáng lập phong trào đòi tự do nhân quyền cho
Việt Nam. Đồng thời với việc ban hành Hiến Chương 77 tại Prague, ngày
23-4-1977, Anh đã tuyên đọc tại khuôn viên Nhà Thờ Đức Bà Saigon “Bản
Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Những Người Viết Nam Khốn Cùng”. Kết quả Anh đã bị
giam giữ 12 năm tại trại cải tạo cùng với các Luật Sư Nguyễn Hữu Giao, Trần Nhật
Tân, Triệu Bá Thiệp, Vũ Hùng Cương và Thủ Lãnh Vũ Đăng Dung tại Luật Sư Đoàn
Huế. Trong thời gian này Luật Sư Khuất Duy Trác cũng bị bắt giam 12 năm, 6 năm
về tội “tuyên truyền chống chế độ” và 6 năm về tội sĩ quan biệt phái.
Sau
khi Cộng Sản cướp chính quyền tại Miền Nam để thiết lập chế độc tài đảng trị,
trong vòng 2 năm, từ 1975 đến 1977 có ít nhất 14 luật sư đã tuẫn tiết hay bị
giam giữ. Luật Sư Trần Chánh Thành đã quyên sinh không chịu khuất phục bạo
quyền, Các vị khác đã đứng lên tố cáo Nhà Cầm Quyền Hà Nội vi phạm nhân quyền và
những quyền tự do căn bản của người dân.
Cuối
năm 1975, trong vụ án Vinh Sơn, Luật Sư Nguyễn Khắc Chính bị kết án tù chung
thân về tội “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân”.
Qua
năm 1976, Luật Sư Trần Văn Tuyên, Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn Saigòn đã tuẫn tiết tại
trại cải tạo Hà Tây. Sau đó, 3 người con trai Trần Vọng Quốc, Trần Tử Thanh và
Luật Sư Trần Tử Huyền đã bị kết án 12 năm, 5 năm và 3 năm về tội “tuyên truyền
chống chế độ”. Đồng thời Luật Sư Thủ Lãnh Lý Văn Hiệp đã bị kết án 12 năm tù
cũng về tội này.Ngoài ra, các Luật Sư Nguyễn Quý Anh và Nguyễn Hữu Doãn cũng bị
giam 18 tháng về tội giả tạo nói trên.
Trong
số 14 luật sư nói trên, cho tới nay ít nhất có 6 vị đã ra người thiên cổ là các
Luật Sư Trần Chánh Thành, Trần Văn Tuyên, Vũ Đăng Dung, Trần Danh San, Nguyễn
Hữu Giao và Nguyễn Quý Anh.
Cùng
với các tầng lớp trí thức khác như bác sĩ và gíao sư, giới luật sư đã đứng lên
tranh đấu đòi tự do nhân quyền ngay từ khi Ðảng Cộng Sản thiết lập chế độ độc
tài vô sản tại Miền Nam.
Lý do là vì người luật sư có truyền thống bất khuất không chấp nhận chuyên chế
và bạo hành. Từ thời Napoleon giới luật sư vẫn là kẻ thù số một của các chế độ
độc tài. Thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, Luật Sư Ðoàn Sàigòn đã phản kháng chính sách
cưỡng bách học tập chính trị. Các luật sư đã công bố lập trường trên báo
chí đòi phải có thuyết trình và thảo luận về đường lối và chính sách quốc
gia, thay vì học tập một chiều như trong các chế độ độc tài toàn trị. Vì không
có thuyết trình viên đủ sức thuyết phục, kết cuộc Chính Phủ đã phải hủy bãi
chương trình học tập chính trị tại Luật Sư Ðoàn Sàigòn. Và Công Tố Viện đã thâu
hồi khởi tố lệnh trạng về tội “nhục mạ nhà cầm quyền”.
Do giáo dục và sinh hoạt nghề nghiệp trong môi trường đối thoại, người luật sư
chấp nhận đối lập thường xuyên giữa luật sư và biện lý, luật sư và chánh án,
luật sư và đồng nghiệp. Nhờ đối thoại, tranh luận, biện minh và thuyết phục để
đi đến hòa giải, thỏa hiệp hay đồng thuận, người luật sư được hấp thụ tinh thần
đấu tranh công khai, ôn hòa, bất bạo động trong việc đề xướng và tôn trọng Sự
Thật và Công Lý. Dầu sao, về lương tâm và chức nghiệp, người luật sư phải giữ
chính trực, vô tư, ôn hòa và tình đồng nghiệp để duy trì hòa khí và tương thân
tương kính, mà nếu thiếu vắng, pháp đình tôn nghiêm sẽ trở thành đấu trường hỗn
loạn.
Từ
sau Thế Chiến II, các luật sư trong các đảng quốc gia Á Châu đã đứng ra lãnh đạo
phong trào giải phóng dân tộc và đã giành được độc lập và thống nhất bằng
đường lối chính trị ngoại giao trong vòng bốn năm từ 1946 đến 1949.
Năm
1934, hai luật sư Quezon và Roxas trong Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân đã đến Hoa
thịnh Đốn vận động Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua một đạo luật công nhận Phi Luật Tân
là một quốc gia tự trị năm 1935 . 11 năm sau nhằm ngày Quốc Khánh Hoa kỳ, Phi
Luật Tân được tuyên bố độc lập ngày 4-7-1946.
Trong
năm 1936, Luật Sư Dabbas tại Liban đã vận động chính phủ Pháp để trao quyền tự
trị cho Syrie và Liban. Và 10 năm sau, năm 1946, Mặt Trận Bình Dân Pháp đã trả
độc lập cho 2 quốc gia này.
Tại
Ấn Độ và Đại Hồi, hai năm sau thế chiến II, năm 1947, Thủ Tướng Lao Động Attlee
đã trả độc lập cho 2 quốc gia này sau những cuộc vận động chính trị và ngoại
giao của các Luật Sư Gandhi, Nehru và Jinnah là những vị lãnh đạo Đảng
Quốc Dân Đại Hội.
Tại
Nam Dương, năm 1949, Thủ Tướng Luật Sư Sjahrir là người đã gia nhập Đảng Lao
Động Hòa Lan và đã nhờ Tổng Thống Truman vận động Liên Hiệp Quốc áp lực Hòa Lan
phải hòa đàm với chính phủ Sjahrir để ký Hiệp Ước La Haye thừa nhận chủ quyền
độc lập của Nam Dương.
Tại
Việt Nam, về mặt chính trị và ngoại giao, trong thập niên 1940, Chính Phủ Pháp
đã ký với Quốc Gia Việt Nam 3 Hiệp Định để thừa nhận chủ quyền độc lập của Việt
Nam. Đó là Hiệp Ứớc Sơ Bộ Vịnh Hạ Long ngày 7-12-1947 để thừa nhận trên nguyên
tác nền độc lập của Việt Nam.
Sáu
tháng sau, ngày 5-6-1948, Hiệp Ước Sơ Bộ được chính thức hóa bởi Thông Cáo Chung
Vịnh Hạ Long ký với Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam với sự bối thự của Quốc Trưởng
Bảo Đại.
Và
ngày 12-2-1949, Ủy Ban Hỗn Hợp Việt Pháp được triệu tập để khai triển những điều
khoản trong Thông Cáo Chung Vịnh Hạ Long nhằm qui định một hiệp ước chính thức
mang danh là Hiệp Định Élysée sẽ được ký kết giữa Tổng Thống Pháp Vincent Auriol
và Quốc Trưởng Bảo Đại. Thành phần phái đoàn Việt Nam gồm 7 vị trong đó có 3
Luật Sư và Giáo Sư là Giáo Sư Thạc Sĩ Nguyễn Quốc Định tại Đại Học Luật Khoa
Paris và hai Luật Sư Bảo Lộc và Nguyễn Đắc Khê.
Bốn
tuần sau, ngày 8-3-1949, Hiệp Định Élysée được ký kết để thừa nhận Quốc Gia Việt
Nam Độc Lập. Những hiệp ước thuộc địa và bảo hộ trong hậu bán Thế Kỷ 19 đã bị
Hiệp Định Élysée bãi bỏ.
Chiếu
Công Pháp Quốc Tế, Việt Nam được độc lập ngày2-2-1950 sau khi Quốc Hội Pháp phê
chuẩn Hiệp Định Élysée ngày 8-3-1949.
Tuy
nhiên Đảng Cộng sản đã phá hoại nền độc lập này. Vì Hiệp Định Élysée không cho
họ độc quyền lãnh đạo quốc gia. Và họ tiếp tục chiến đấu trong 25 năm để cướp
chính quyền và thôn tính Việt Nam Cộng Hòa bằng bạo lực.
Muốn
giải thể chế độ độc tài Cộng Sản, theo lời nhắn nhủ của Tổng Thống Nelson
Mandela, mỗi người trong chúng ta phải sẵn sàng hy sinh thân sống để Xây Dựng
Thành Trì Tự Do Dân Chủ cho đồng bào và nhân loại.
Luật
Sư NGUYỄN HỮU THỐNG
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen