Trung
Quốc không dấu diếm tham vọng quân sự của họ, nhưng Hoa Kỳ đã có lúc
từng hy vọng Trung Quốc chọn một trong hai mục tiêu cho chính sách quân
sự ấy: tranh thắng và đương đầu, hay hợp tác đôi bên cùng có lợi.
Nhưng
mấy năm gần đây, trước một chính sách của Bắc Kinh có nhiều phần
nghiêng về phía tranh thắng và đối đầu, Hoa Kỳ đã theo đuổi một chính
sách lưỡng diện tế nhị.
Bối cảnh
Một
mặt, Washington tỏ ra thân thiện để vuốt ve, khuyến khích Trung Quốc
đứng vào địa vị một cường quốc có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Mặt
khác, Hoa Kỳ dùng sách lược khéo léo ngăn chặn đà cạnh tranh quân sự và
thái độ gây hấn của Bắc Kinh bằng những cuộc đối thoại, thảo luận,
thuyết phục, thay vì đối xử với Bắc Kinh như với kẻ thù. Cùng lúc,
Washington không quên tăng cường lực lượng quân sự bằng những kế hoạch
tái phối trí, tăng cường võ trang chưa bao giờ gián đoạn.
Trung
Quốc cũng tìm mọi cách hóa giải sách lược ngăn chặn của Mỹ. Bắc Kinh
tranh đua với Washington về khả năng quân sự, trước hết là vì vấn đề Đài
Loan, kế đó là vấn đề chủ quyền trên biển Hoa Đông với xứ Nhật Bản
không tiện ồn ào phô trương nhưng không yếu kém về quân sự, và kế đó
là chủ quyền những túi nhiên liệu khổng lồ ở biển Đông, mà họ gọi là
biển Nam Trung Hoa.
HKMH USS Truman và tàu tiếp vận USS Spica- World Examiner photo
Biển
Đông được coi như sân trước của ngôi nhà Trung Hoa, nơi đó Bắc Kinh có
ưu thế quân sự và chính trị vượt trội trước một khối quốc gia Đông Nam Á
chia rẽ mạnh ai nấy sống, dù Philippines kêu la và Việt Nam dường như
chỉ biết than thầm.
Việt
Nam vuốt ve ông láng giềng hung hãn bằng cách nhắc lại thù xưa với Mỹ,
cố nhấn chìm thù mới, cấm dân khuấy động mối căm hờn còn nóng bỏng vì
xương máu chiến sĩ ở Hoàng Sa 1974, biên giới phía bắc 1979-1986 và
Trường Sa 1988.
Vấn
đề biển Đông đối với Trung Quốc chỉ còn là sự chờ đợi kết quả cuộc đấu
tranh ngoại giao với Hoa Kỳ về vấn đề chủ quyền nơi này, trong khi nỗ
lực thúc đẩy sự nản lòng và đoạn tuyệt của Washington với Hà Nội trước
chính sách nhu nhược và mờ ám của Việt Nam.
Trong
khung cảnh toàn thế giới, trách nhiệm toàn cầu mà Hoa Kỳ tự đứng ra
nhận lãnh đòi hỏi Washington phải duy trì một lực lượng quân sự chiếm ưu
thế tuyệt đối về phẩm chất và dồi dào về số lượng. Ngân sách quốc
phòng năm 2011 do Tổng thống Obama đề nghị là 665 tỉ đô la, Quốc hội
thêm vào và thông qua 680 tỉ, chưa kể 37 tỉ đô la dành cho Iraq và
Afghanistan trong dự luật bị Hạ viện hoãn sau khi qua được Thượng Viện.
Qua
năm 2012 ngân sách cho bộ quốc phòng Hoa Kỳ là 711 tỉ, chiếm 41% chi
phí quốc phòng của cả thế giới, và tính chung mọi chi phí liên quan đến
quốc phòng của Mỹ thì con số vượt trên 1 ngàn tỉ mỹ kim. Ngân sách mới
được ban hành cho năm nay, trong tinh trạng cắt giảm chi tiêu và ngân
sách chung, là 633 tỉ đô la.
Trong
khi đó, để theo đuổi vị trí một cường quốc đại dương và trước hết chiếm
ưu thế tuyệt đối trong các cuộc tranh chấp lãnh hải ở châu Á, Trung
Quốc cũng gấp rút đổ tiền vào quốc phòng từ nhiều năm trước đó. Theo số
liệu đáng tin cậy của Viện nghiên cứu hoà bình quốc tế Stockholm, chi
phí quốc phòng năm 2012 của Trung Quốc được công bố là 105 tỉ, tăng
11,2% so với năm trước, nhưng trên thực tế là 228 tỉ đô la, vượt ngưỡng
20% chi phí quốc phòng của Hoa Kỳ, chiếm 8,2% chi phí quốc phòng toàn
thế giới.
Điều
đáng lưu ý cho Đông Nam Á: Trung Quốc tuyên bố sự gia tăng chi phí quốc
phòng này là vì tình trạng “các nước láng giềng không thân thiện”!
Trong khi đó Bắc Kinh không ngớt tuyên truyền để Hà Nội rao giảng lại
với người dân Việt cái gọi là “quan hệ 16 chữ vàng”. Không nói tới Hoa
Kỳ, nhưng ai cũng hiểu “láng giềng không thân thiện” ở khu vực Thái Bình
Dương phía nam Trung Quốc còn là sự hiện diện của các lực lượng Hoa Kỳ
tại Thái Bình Dương trong mối liên minh có hiệp ước an ninh chung với
Philippines, Nhật Bản, Thái Lan...
Trước
ý đồ rõ rệt trong ván bài lật ngửa này, Hoa Kỳ phải làm gì? Trung Quốc
sẽ dừng lại ở đâu trên con đường phát triển lực lượng quân sự ?
Washington mong muốn Bắc Kinh dừng lại nơi nào?
Quan niệm chiến lược của Trung Quốc
Từ
1990 dưới thời Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc không còn cần đến chiến lược
chiến tranh tiêu hao, hay tiêu thổ kháng chiến, của Mao Trạch Đông.
Chiến lược chiến thuật của Bắc Kinh cho đến khi ấy chỉ dựa vào ưu thế
quân số và hoả lực bộ binh, tỏ ra hữu hiệu ở những vùng ven biên giới
với những nước nhỏ, là những chiến trường có cơ sở tiếp vận ngay trong
nội địa sát cạnh.
Ưu
thế này được chứng tỏ trong những trận bộ chiến từ 1979 đến 1986 ở biên
giới Việt-Trung. Trên không và trên biển, hải quân Trung Quốc chỉ đủ
khả năng ức hiếp những nước đang bị nội chiến bó tay, như Việt Nam Cộng
Hoà với quần đảo Hoàng Sa, và những láng giềng đồng minh yếu kém, như
CHXHCN Việt Nam với một đảo quan trọng ở quần đảo Trường Sa.
Nhung
khi chứng kiến trên truyền hình quốc tế cuộc tấn công thần kỳ của Hoa
Kỳ và đồng minh mở màn chiến tranh vùng Vịnh hôm 2 tháng 8 năm 1990, Chủ
tịch Đặng Tiểu Bình cùng Bộ chính trị và Quân Uỷ Trung ương hội họp
khẩn cấp, ra chỉ thị dồn hết mọi nỗ lực đẩy mạnh công cuộc hiện đại hoá
Quân đội Nhân dân Trung Hoa, theo chiến lược “Địa phương chiến” và “Tốc
chiến tốc thắng”.
Trung
Quốc từ đó chú trọng "hiện đại hoá" quân lực song song với sức mạnh của
nền chính trị độc đoán và nền kinh tế phát triển nhanh chóng diễn tiến
đúng “kế hoạch kinh tế 70 năm cho Trung Quốc” của Đặng Tiểu Bình. Chính
phủ và quân đội Trung Quốc bằng mọi cách phải hoàn thành những sứ mạng
được giao phó theo chiến lược chuyển hóa an ninh quốc phòng này. Bạch
thư quốc phòng năm 2004 và 2006 của Bắc Kinh mô tả con đường hiện đại
hóa Quân đội Nhân dân Trung Hoa như “Cuộc cách mạng quân sự với đặc tính
Trung Hoa”, chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn I: Giảm
thiểu quân số và hiện đại hoá hệ thống phòng thủ, nỗ lực tăng tiến kỹ
nghệ quân sự. Công cuộc cải tổ quân sự nhằm gia tăng tính sẵn sàng chiến
đấu của quân đội với những đơn vị quân sự chọn lọc, được huấn luyện đến
mức cao nhất, tham dự những cuộc tập trận sát thực tế nhất, bao gồm cả
những cuộc tập trận chung với Liên Bang Nga và các nước khác.
Giai đoạn II: tiến
tới trình độ hành quân phối hợp quân binh chủng hải lục không quân.
Trung Quốc nhiều lần nhấn mạnh nhu cầu “thông đạt hóa”, mà Hoa Kỳ gọi
là C4ISR (command, control,
communications, computers, intelligence, reconnaisance, and
surveillance) gồm các công tác chỉ huy, kiểm soát, liên lạc, computer,
tình báo, thám sát và giám sát.
Chiến đấu cơ J-10 Thành đô của Trung Quốc- businessinsider photo
Bạch
thư quốc phòng 2004 của Bắc Kinh lặp lại chính xác những mũi nhọn chiến
lược mà Ngũ Giác Đài dồn nỗ lực phát triển, bao gồm kỹ thuật vệ tinh và
công cụ cảm nhận trên không, máy bay tự hành viễn khiển, cùng chiến
tranh không gian ảo, hay không gian mạng.
Giai đoạn III: duy
trì và phát triển lực lượng hạt nhân ngăn đe, thách đố quyền thống lãnh
quân sự của Hoa Kỳ ở bất kỳ nơi nào có thể thách đố. Quyết tranh đoạt
ưu thế trong cuộc đối đầu quân sự để Hoa Kỳ không còn tự tin có thể
chiến thắng dễ dàng và nhanh chóng, Trung Quốc nhắm khai thác những yếu
huyệt khó bảo vệ của lực lượng quân sự Mỹ, sử dụng các hình thái chiến
tranh không gian và không gian ảo, tấn công hàng không mẫu hạm, chống
sức mạnh không lực. Điển hình, những phi đạn chống vệ tinh và phi đạn
cao tốc chống chiến hạm mới đây của Bắc Kinh cho thấy quyết tâm san bằng
khoảng cách về ưu thế không gian, không quân và hải quân của
Washington.
Tăng
tiến năng lực quân sự còn là con chủ bài để đe dọa Đài Loan đến nơi đến
chốn và ngăn đe hay phản kích hữu hiệu một cuộc can thiệp quân sự của
Mỹ. Tuy nhiên Trung Quốc tự thấy chưa đủ sức yểm trợ và bảo vệ an toàn
cho các lực lượng nhảy dù và đổ bộ, là điều kiện tối hậu cho một trận
tấn công chiếm giữ vĩnh viễn hải đảo này. Cuộc tấn công sẽ trở thành
thảm họa khi hạm đội 7 tung lực lượng ra giúp Đài Loan.
Vì
thế, thay cho lực lượng đổ bộ, hằng ngàn phi đạn ngắn tầm được bố trí ở
duyên hải tỉnh Phúc Kiến, đặt trọn quần đảo Đài Loan dưới tầm bão lửa
diệt vong, cùng với cuộc tấn công bao vây cô lập kinh tế Đài Loan bằng
cách ngăn trở các phương tiện vận chuyển hàng không, hàng hải thương
mại, không cho dễ dàng tiếp cận đảo quốc.
Tuy
nhiên sau thời Giang Trạch Dân, giới lãnh đạo Trung Quốc từ thời Hồ Cẩm
Đào muốn dùng chính trị và kinh tế hơn là quân sự cho vấn đề Đài Loan,
vì đà phát triển quân lực không theo kịp Hoa Kỳ. Dù công cuộc kiến tạo
lực lượng quân sự cân bằng với Hoa Kỳ vẫn là chiến lược chủ đạo, nhưng
viễn ảnh cân bằng còn quá xa vời, nên công tác thiết lập ưu thế quân sự
tuyệt đối trong khu vực Đông Á- Đông Nam Á đã được quan tâm không kém.
Trung Quốc quyết tâm phát triển quân lực để bảo vệ lãnh hải đầy tham
lận mà họ đã giành chiếm và đơn phương độc đoán vạch ranh giới, bao trùm
gần hết biển Đông và phần lớn biển Hoa đông đối diện Nhật Bản. Nhu cầu
độc chiếm nguồn nhiên liệu và các thủy lộ huyết mạch đến Trung Quốc là
nhu cầu căn bản cho công cuộc phát triển kinh tế và quân sự, hướng đến
mục tiêu thách đố Hoa Kỳ.
Lực bất tòng tâm?
Hàng không mẫu hạm đầu tiên của Trung Quốc, Liêu Ninh - china-defense-mashup.com photo
Tuy
nhiên, cùng lúc, từ nội địa, những bất ổn ngày càng gia tăng về số
lượng và cường độ. Không chỉ Tây Tạng, Tân Cương, Tứ Xuyên luôn luôn sôi
động vì vấn đề sắc tộc, tự trị, mà Vân Nam, Trùng Khánh, Quý Châu cũng
căng thẳng với những đòi hỏi của nông dân nghèo đói, trước cảnh xa hoa
của những đô thị “chủ lực kinh tế” ở vùng duyên hải miền đông. Nền kinh
tế mất đà thăng tiến vào lúc chu kỳ phát triển dường như đã hết giai
đoạn khả quan. Người dân nghèo đòi hỏi công bằng kinh tế và tăng phúc
lợi, nhu cầu phải thoà mãn cho một giai cấp trung lưu đông đảo bằng dân
số của Hoa Kỳ, sự bất quân bình về mọi mặt giữa thành thị-thôn quê, giữa
các vùng duyên hải với vùng sơn cước, thị trường tài chính tham ô nặng
đầy nợ xấu, dân số lão hoá… Lực lượng quân sự hay cảnh sát sẽ càng làm
rối thêm tình hình nội địa nếu đem ra sử dụng giữ an ninh trật tự, nên
Bắc Kinh phải dành những ngân khoản lớn lao cho các vấn đề xã hội chính
trị nội địa.
Nhưng
dù không thể dành hết mọi tài nguyên cho quân đội, Bắc Kinh vẫn tìm mọi
cách để dành ưu tiên hiện đại hóa và phát triển quân sự, và một khi ưu
thế quân sự ở Đông Á- Đông Nam Á nghiêng về Trung Quốc thì tình thế an
ninh quốc phòng nơi này sẽ biến đổi mãi mãi. May thay Hoa Kỳ vẫn có thể
ứng phó với đà bành trướng khu vực của Trung Quốc bằng những biện pháp
không làm quan hệ song phương quá căng thẳng hay đổ vỡ. Hoa Kỳ tỏ ra
muốn trông chờ ở sức mạnh quân sự của Trung Quốc trong những viễn ảnh
lạc quan hơn là tranh đua cao thấp.
Một
lực lượng quân sự thiện chiến, có khả năng phối trí nhanh, hoạt động
hữu hiệu, có thể trở thành hữu ích cho nỗ lực của các cường quốc trong
việc hợp tác ổn định an ninh trật tự thế giới, chống và diệt khủng bố,
nếu Bắc Kinh muốn đứng ngang hàng với khối NATO và chọn vai trò cường
quốc có trách nhiệm với quốc tế. Vai trò của Bắc Kinh trong vấn đề Bắc
Hàn chứng minh điều đó.
Trong
mối hy vọng đầy lạc quan đó, Washington vẫn phải theo dõi chặt chẽ tiến
trình hiện đại hoá quân sự của Bắc Kinh, và trong những giả thuyết bi
quan nhất, chiến lược đối phó với Trung Quốc phải thay đổi. Vài ví dụ,
như những dấu hiệu dành ngân sách dồi dào nhất cho quốc phòng, những lời
lẽ cường điệu vô trách nhiệm trong cuộc giành chiếm lãnh thổ lãnh hải
độc đoán, những lời tuyên truyền kích động nhân dân chống lại những “kẻ
thù” mà dù không nói ra cụ thể ai cũng hiểu đó là người Mỹ. Những dấu
hiệu báo động khác chưa xảy đến nhưng có thể dự đoán bao gồm nhưng không
hạn chế trong những sự kiện như sự xuất hiện và lớn mạnh của một lực
lượng lớn cho chiến tranh sinh hoá, nỗ lực kiến tạo lực lượng hạt nhân
để cân bằng và chiếm ưu thế so với Mỹ, sự thay đổi quan niệm chiến lựoc
hạt nhân từ “không đánh trước” sang “tiên hạ thủ vi cường”, hay những
thương vụ vũ khí lớn lao cả về số lượng lẫn chủng loại, phẩm chất. Quan
trọng nhất là một liên minh quân sự quốc tế mới dựa trên quân lực Trung
Quốc liên kết với một số cường quốc quân sự, kinh tế khác, là biểu hiện
chắc chắn tham vọng tranh thắng đã trở thành chiến lược cụ thể của Bắc
Kinh trong việc thách đố địa vị siêu cường hàng đầu của Hoa Kỳ.
Những
dấu hiệu đó, nếu xảy ra, sẽ cho thấy quan niệm chiến lược thực sự của
Trung Quốc, sau cùng đưa đến khả năng quân sự không những vượt quá những
điều kiện để chiếm giữ Đài Loan mà còn lạc hướng đối với vai trò “cường
quốc có quyền lợi và trách nhiệm” trên bàn cờ quốc tế.
Chiến lược của Hoa Kỳ
Tranh
vẽ biểu thị vũ khí siêu việt của Hoa Kỳ : tia laser bắn rơi hỏa tiễn
trên không phận California, thử nghiệm hôm 11 tháng 2, 2010- DOD
painting
Muốn
đối phó chiến lược của Trung Quốc, Hoa Kỳ phải đầu tư rộng rãi để mạnh
mẽ gia tăng sức mạnh quốc phòng. Chiều hướng ấy phải được duy trì trong
thời gian lâu dài sắp tới, dù dưới tình trạng phát triển kinh tế ra sao.
Lực lượng quốc phòng Hoa Kỳ phải đủ khả năng thực hiện những kế hoạch
ngăn chặn ngắn hạn và trung hạn của chiến lược lưỡng diện đối với Trung
Quốc.
Về
phương diện quân sự, ngân khoản dồi dào cần được dành cho vũ khí và khí
cụ tối tân ưu việt của không quân và hải quân. Một tỉ lệ cao của ngân
sách quốc phòng phải được dành cho những chiến đấu cơ tối tân chiếm ưu
thế không trung tuyệt đối, những phi đội pháo đài bay chiến luợc, những
hạm đội hàng không mẫu hạm và chiến hạm thế hệ mới, những máy bay tự
hành viễn khiển (UAV) hoạt động tầm xa dài ngày, những tàu ngầm hạt nhân
tấn công, và những phương tiện hay khí cụ C4ISR
dưới nhiều hình thức cơ sở như chiến hạm, tàu ngầm, phi cơ, ngầm
dưới mặt đất… cùng lúc phối hợp và thi hành những công tác chỉ huy, kiểm
soát, liên lạc, computers, tình báo, thám sát và giám sát.
Cùng
lúc, quân lực Mỹ còn phải tiếp tục tài trợ và duy trì vững chắc những
khả năng cần thiết chính yếu khác để chiến đấu trong cuộc chiến chống
khủng bố không bao giờ ngưng nghỉ. Thêm vào đó lại còn các chiến dịch
quốc tế gìn giữ hoà bình của Liên Hiệp Quốc, trong đó quân đội Mỹ dự
phần, và thường là lãnh đạo, với những cuộc chiến “cổ điển” trên những
vùng sôi động của thế giới. Song song, Washington còn phải duy trì lực
lượng ngăn đe hạt nhân và không hạt nhân, phải thi hành những kế hoạch
phòng vệ chống lại mối đe doạ triền miên về hiểm hoạ vũ khí tàn sát quy
mô, bao gồm nhưng không hạn chế trong các khí cụ hạt nhân, sinh hoá học…
Tất
cả những nhiệm vụ này đều phải được dành đủ ngân sách để hoàn thành
tuyệt đối đúng, song song với nhau, không thể buông bỏ hay giảm nhẹ một
nhiệm vụ nào vì dành ưu tiên cho nhiệm vụ khác.
Đến
nay, thêm với hậu quả kinh tế suy trầm, thương mại thâm hụt, một số
hiện tượng về điều hành quản lý vụng về những cuộc chiến kéo dài ở một
số địa bàn hoạt động trên thế giới cùng phí tổn lâu năm cho những nơi ấy
đã hạn chế tài nguyên dành cho chiến lược “rào cản” ngăn chặn sự lớn
mạnh nhanh chóng của lực lượng quân sự Trung Quốc. Chính quyền Hoa Kỳ,
cả hành pháp và lập pháp, trong hiện tại và tương lai phải bảo đảm có đủ
tài chính cho một hàng rào tinh tế chống lại Trung Quốc. Chiến lược này
tinh vi ở chỗ có thể hạn chế hữu hiệu sự phát triển quân lực của Bắc
Kinh mà vẫn phù hợp với phần hành “tiếp xúc thân thiện” với Trung Quốc,
đồng thời phải nằm trong phạm vi khả năng tài chính của ngân sách bị cắt
giảm từng năm kể từ 2013.
Vậy Hoa Kỳ làm cách nào ứng phó với quân lực Trung Quốc hiện đại hoá?
Chiến lược lưỡng diện
Trước
hết, phải tiếp tục đầu tư cho công cuộc tăng tiến khả năng quân sự bằng
một loạt biện pháp và kế hoạch dành cho các vũ khí, khí cụ không gian,
không lực và hải lực, cũng như lực lượng bộ chiến, cùng các đơn vị hành
quân đặc biệt thi hành những nhiệm vụ đoản kỳ. Công tác thu thập và phân
tích tin tức tình báo về mọi hoạt động bên trong quân đội Trung Quốc
phải được duy trì và gia tăng.
Nhìn
ra ngoài, Hoa Kỳ cần duy trì và phát triển các liên minh ở châu Á, bằng
cách giữ vững mối liên minh với Nhật Bản, Nam Hàn, Australia,
Philippines, Thái Lan. Washington còn phải tìm cách thắt chặt mối tương
tác quân sự với Ấn độ, Singapore, và có thể với cả Việt Nam, tuy xứ này
chưa thoát khỏi vòng khống chế của Bắc Kinh. Đặc biệt, củng cố liên minh
Hoa Kỳ-Nam Hàn và duy trì sự hiện diện quân sự ở Guam là hai công tác
quan trọng bậc nhất cho việc ngăn đe Bắc Hàn, bảo đảm an toàn cho Nhật
Bản, đồng thời biểu thị quyết tâm bảo vệ và liên kết chặt chẽ với toàn
thể châu Á tự do, kể cả những nước chưa tự do nhưng muốn bứt khỏi vòng
cương toả của Bắc Kinh, trong đó Miến Điện là một ví dụ điển hình gần
nhất.
Hoa
Kỳ cũng phải tiếp tục bảo đảm, nhưng không cam kết trên pháp lý, và cho
thấy khả năng quân lực Mỹ có thể bảo vệ Đài Loan trước một cuộc tấn
công không bị khiêu khích phát xuất từ bên kia eo biển Đài Loan.
Mặt
khác, Washington còn phải tiếp tục những hoạt động quân sự song phương
với Trung Quốc, như mở những cuộc đối thoại định kỳ theo kế hoạch hay
bất thường giữa bộ quốc phòng hai nước, hay giữa hai bộ tổng tham mưu,
giữa Tư lệnh bộ chỉ huy chiến lược Hoa Kỳ với một nhân vật của Quân Uỷ
Trung ương với tư cách đại diện có thẩm quyền của Bộ Tư lệnh đệ nhị quân
đoàn pháo binh chiến lược Trung Quốc.
Là
một phương tiện quan trọng của cả hai biện pháp “rào cản” ngăn chặn và
tiếp cận, mối liên lạc quân sự song phương tạo nên sự “quen biết” có thể
giúp tránh được những tính toán sai lầm trong những thời khắc khủng
hoảng, căng thẳng, hay cạnh tranh lẫn nhau. Một vài ví dụ điển hình như
vụ toà đại sứ Trung Quốc ở Belgrade bị trúng bom của NATO năm 1999, vụ
đụng máy bay Mỹ-Trung năm 2001 trên không phận cách đảo Hải Nam 70 dặm,
vụ đối đầu từ 5 đến 8 tháng 3, 2009 giữa tàu nghiên cứu hải dương
Impeccable của Hoa Kỳ với tàu chiến, tàu cá và máy bay của Trung Quốc.
Thay vì phản ứng thích đáng về quân sự, Hoa Kỳ cần phải theo đuổi chính
sách “đáp ứng theo giá trị” để hai bên đều có được lợi ích tương đương.
Sau
cùng, Hoa Kỳ cần mở rộng hoạt động quân sự song phương qua những hoạt
động phối hợp có lợi cho cả hai bên. Những hoạt động này có thể bao gồm
công tác tìm kiếm- cứu nạn, chống khủng bố, hải tặc, buôn bán ma tuý,
buôn người, hoạt động nhân đạo, cứu nạn dân sự, và bảo vệ hoà bình.
Những điều cần tránh
Để
không gây căng thẳng cho quan hệ với Trung Quốc, trong chiến lược quân
sự, trước hết việc lập đồng minh khu vực với mục đích công khai “chống
Trung Quốc" là một điều cần cân nhắc kỹ lưỡng tính cách thiết yếu và
thiết thực của nó. Hầu hết những quốc gia khả dĩ làm thành viên cho liên
minh như vậy đều phải bảo vệ và nuôi dưỡng quan hệ song phương với Bắc
Kinh, và sẽ từ chối tham dự chiến lược nào mà chỉ nhắm tới vịêc lập ‘rào
cản’ Trung Quốc.
Hoa
Kỳ cũng đừng bị cám dỗ kiến tạo chính thức một “liên minh phòng thủ”
với Đài Loan hay cam kết một sự yểm trợ quân sự vô điều kiện. Washington
còn phải dứt khoát phản đối mọi cố gắng của Đài Loan muốn đơn phương mở
cuộc tấn công trước, nhất là bằng vũ khí hạt nhân.
Sau
cùng, nỗ lực vô hiệu hoá lực lượng hạt nhân ngăn đe của Trung Quốc bằng
một lực lượng phản kích hay lá chắn hoả tiễn phòng thủ không những
không thể chống lại một cách toàn diện cuộc tấn công hạt nhân từ Trung
Quốc, mà còn thúc đẩy Trung Quốc xây đắp một lực lượng hạt nhân chiến
lược mạnh hơn cả lực lượng họ sẽ kiến tạo trong thời gian không lâu sắp
tới. Điều này đã xảy ra với Liên Bang Nga.
Trở ngại: Việt Nam
Bản đồ minh họa những lô dầu của Việt Nam trên thềm lục địa, một số bị Trung Quốc chồng lấn.- Map by Vietnamese Press Overseas.
Chiến
lược quân sự trong quan hệ với Trung Quốc dù điều hành cách nào cũng sẽ
gặp một trở ngại lớn: nhu cầu nhiên liệu của Trung Quốc.
Tới
nay, vì chiến lược ‘rào cản’ ở phía nam Trung quốc, Hoa Kỳ muốn giúp Hà
Nội thoát khỏi phần nào ảnh hưởng toàn diện của Bắc Kinh, trước hết
bằng quan hệ kinh tế rồi đến sách lược trợ giúp Việt Nam bảo toàn lãnh
hải đặc quyền kinh tế. Washington tỏ ra cương quyết bảo vệ “quyền tự do
lưu thông hàng hải trên biển Đông” cùng với việc làm ăn của các công ty
dầu khí Hoa Kỳ tại những nơi mà Trung Quốc đòi gọi thầu và khai thác
trong lãnh hải đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Philippines. Trung Quốc
đã rắp tâm giành chiếm những vùng biển này từ lâu, theo ranh giới “lưỡi
bò” do họ đơn phương áp đặt giữa sự phản đối của hầu hết châu Á và đông
đảo các nước trên thế giới, chỉ trừ Lào, Cambodia. Nguợc lại, Trung
Quốc khó lòng từ bỏ tham vọng chiếm hữu nguồn nhiên liệu dồi dào ở biển
Đông, là huyết mạch của nền sản xuất, nền kinh tế Trung Quốc. Bắc Kinh
hết sức tạo áp lực toàn diện lên các nước Đông Nam Á, nhất là Việt Nam,
để thực hiện tham vọng ấy.
Chính sách "đợi chờ"
Chính sách của Hoa Kỳ trong vấn đề này dường như đang phải chờ đợi thái độ thẳng thắn dứt khoát của Việt Nam.
Để
đáp ứng yêu cầu trợ giúp của Việt Nam, Hoa Kỳ đòi hỏi Việt Nam trước
hết phải cải tổ tình trạng nhân quyền. Chẳng may cho Hà Nội, cải tổ nhân
quyền lại đòi hỏi những thay đổi căn bản về luật pháp, hiến pháp, quan
hệ chính trị và xã hội giữa chính quyền và người dân, quan hệ pháp lý
giữa đảng cầm quyền với chính quyền gồm cả ba ngành hành pháp, lập pháp,
tư pháp, mối quan hệ tam quyền phân lập giữa ba ngành ấy, và tối hậu,
là một nền chính trị dân chủ đa nguyên. Trong nền dân chủ ấy đảng Cộng
sản vẫn có thể là đảng cầm quyền nếu được dân tín nhiệm, nhưng cai
trị trong một hệ thống pháp trị, thượng tôn luật pháp, và mọi đảng phái
đều có giá trị ngang nhau.
Đối
diện với yêu cầu đó, Việt Nam vẫn kiên quyết giữ chặt thể chế độc đảng
do đảng Cộng sản thống lĩnh với quyền lãnh đạo tuyệt đối. Để giữ được,
Hà Nội không thể tách khỏi mối liên kết với Bắc Kinh, và phải dồn tài
nguyên dồi dào cho lực lượng công an để mua lấy sự trung thành tuyệt
đối, dù lực lượng quân sự có bị chia xẻ tài nguyên đầu tư cho phát triển
trong lúc nhu cầu đối đầu quân sự với Trung Quốc càng ngày càng khẩn
thiết.
Đi
vào ngõ hẹp, Hà Nội bắt đầu trở giọng, nếu chưa phải là trở mặt, kín
đáo mở chiến dịch tuyên truyền giáo dục trong nội bộ đảng về “công ơn”
của nước láng giềng Trung Quốc đã cho từng cây kim sợi chỉ trong cuộc
chiến tranh giành được miền Nam, đồng thời nhắc lại mối thù xưa với nước
Mỹ, là nước mà nay đang chờ giúp Việt Nam chống Trung Quốc!
Thời
gian không còn lâu để thử thách sự kiên nhẫn của Mỹ. Một khi quyết định
thuận cho Trung Quốc thoả mãn nhu cầu nhiên liệu và khai thác dầu khí ở
biển Đông, Washington vẫn có thể có được lời cam kết của Bắc Kinh dành
quyền tự do lưu thông hàng hải cho Hoa Kỳ cùng các đồng minh Nhật Bản,
Nam Hàn ở Đông Á, và Bắc Kinh sẵn sàng hứa không đụng chạm đến lãnh hải
hợp pháp của Philippines, nước đồng minh hiệp ước của Hoa Kỳ.
Hoa
Kỳ tỏ rõ lập trường đứng về phía Nhật Bản trong cuộc tranh chấp quần
đảo Senkaku/ Điếu Ngư vì Tokyo kiên quyết không nhượng bộ dù tình hình
càng ngày càng căng thẳng, và vì lý do chính yếu: đó là sinh lộ huyết
mạch của Nhật và Nam Hàn, hai đồng minh không thể thiếu ở châu Á. Hoa Kỳ
cần Đài loan không bằng cần Nhật Bản, Nam Hàn.
Washington
cam kết giữ vững chân đứng ở châu Á chẳng phải chỉ vì Việt Nam. Hoa Kỳ
chỉ thi hành chính sách đó ở những nước bạn và đồng minh thực sự cần đến
Mỹ, trong khi Mỹ cũng cần đến bạn hàng thương mại và đồng minh hay
tương tác trên phương diện địa chính trị.
Hoa
Kỳ có thể không ngần ngại lâm vào mối căng thẳng với Trung Quốc ở biển
Đông là vì tầm quan trọng của về địa chính trị của Việt Nam trong vai
trò củng cố bán đảo Đông dương như một “thành trì” ở phía nam Trung Hoa
để ngăn cản ảnh hưởng bành trướng của Bắc Kinh. Đó là vai trò từ ngàn
đời nay của người Việt, mà Hoa Kỳ hy vọng Hà Nội sẽ kế thừa.
Nhưng
một khi Việt Nam đã quay lưng và quy phục Trung Quốc, liệu Hoa Kỳ có
cần bỏ tiền bạc, thời gian và công sức cho Việt Nam để làm căng thẳng
thêm mối quan hệ với Bắc Kinh, hay Washington sẽ dồn những tài nguyên đó
cho Đông Nam Á, Đông Bắc Á, nơi vẫn sẵn có những “hàng rào giậu” bao
vây trên các vùng biển xung quanh xứ Trung Nam Hải?
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen