NHẮC LẠI CUỘC NỔI DẬY CỦA DÂN QUỲNH LƯU
(NGÀY 13-11-1956)
14-9-2014
Cuộc
nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu được nhân dân Sài Gòn biểu tình tuần
hành ủng hộ và lên án gắt gao nhà cầm quyền CSVN trong việc đàn áp nhân
dân Quỳnh Lưu, xin mời xem clip Video lịch sử nầy:
https://www.youtube.com/watch?v=T4RHwJxx91o
Năm
1956, cuộc nổi dậy của đồng bào huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, là 1
cuộc đấu tranh đẫm máu chống lại chính sách cai trị dã man của lãnh đạo
CSVN, mà qua đó, chính sách Cải Cách Ruộng Ðất đã là nguyên nhân chính
làm bùng nổ cơn phẫn nộ của người dân. Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị đảng
CSVN bưng bít tin tức rất kỹ vì tầm mức ảnh hưởng nguy hiểm của nó;
trong khi cuộc đấu tranh của các văn nghệ sĩ trong biến cố Nhân Văn Giai
Phẩm may mắn hơn, được loan tin vào miền Nam VN thời bấy giờ, với những
tư liệu lịch sử rất giá trị.
Nhưng
không vì thế mà cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị chôn vùi với nỗi oan khiên
của những nạn nhân đã chết. Một số nhân chứng hiếm hoi đã kể lại, viết
lại để các thế hệ tiếp nối hiểu được những gì xảy ra dưới chế độ XHCN.
Tội ác của lãnh đạo CSVN không thể đếm băng số người dân đã chết. Tầm
mức [mục đích] của tội ác đã đi ra khỏi giới hạn suy nghĩ của loài
người.
Bài hát của người dân Quỳnh Lưu trong ngày nổi dậy
Anh đi giết giặc lập công
Con thơ em gửi mẹ bồng
Ðể theo anh ra tiền tuyến
Tiêu diệt đảng cờ Hồng
Ngày mai giải phóng
Tha hồ ta bế ta bồng con ta
Trung
ương đảng CSVN đã trao cuộc đấu tranh Cải cách ruộng đất cho Trường
Chinh lãnh đạo và Hồ Viết Thắng, Ủy viên Trung ương đảng, phụ trách điều
hành. Dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng đất cho mỗi tỉnh và
dưới cấp đoàn có các đội cải cách ruộng đất cho từng xã. Các đoàn và đội
đều nhận lệnh trực tiếp từ trung ương mà không cần qua ủy ban hành
chánh địa phương. Thành phần trong các đoàn, đội được tuyển lựa đều là
thành phần cốt cán, bần cố nông, là đảng viên trung kiên đã chiến đấu
trong bộ đội.
Càng
về sau, chính sách cải cách ruộng đất càng khốc liệt bởi phần đông đội
viên toàn là những người trẻ tuổi, cuồng tín, được bồi dưỡng tư tưởng
đấu tranh giai cấp, căm thù thật sự. Vì thế, trong năm 1956, riêng đợt
cải cách ruộng đất Ðiện Biên Phủ đã đưa số nạn nhân bị tàn sát lên đến
10.000 người. Ðội cải cách ruộng đất đã trở thành công cụ giết người ghê
rợn của chế độ. Sự tàn sát lên cao vì chính sách kích tỷ lệ (nâng tỷ
lệ) của CSVN. Thí dụ : cứ mỗi xã có 100 gia đình thì dù đủ hay không, có
hay không có, đội cải cách ruộng đất của xã đó phải tìm cho ra ít nhất
là 5 gia đình địa chủ (tỷ lệ 5%), nếu hơn thì càng tốt. Trong 5 gia đình
này phải quy cho được 2 gia đình là cường hào ác bá để xử tử. Nếu đội
không làm đủ tiêu chuẩn sẽ bị phê bình là thiếu ý thức đấu tranh giai
cấp, công tác kém cỏi. Nghe 1 đoạn thơ tuyên truyền của thi sĩ Tố Hữu,
ta sẽ thấy sự dã man ra sao:
Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho Ðảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,
Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt.
Cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưu 13-11-1956-(Nghệ An)
Sau cái gọi là Nghị quyết sửa sai của đảng CSVN về những đợt CCRĐ đất đẫm máu
Mục
tiêu cuộc Cải cách ruộng đất còn là cơ hội để đảng CSVN mở cuộc thanh
trừng quy mô những đảng viên trong nội bộ hoặc trong hàng ngũ kháng
chiến cần bị đào thải vì không thuộc thành phần vô sản, những người có
thể trở thành nguy hiểm cho đảng vì đã trau giồi những kinh nghiệm đấu
tranh, đã có khả năng lãnh đạo, có uy tín, nắm vững tình hình đảng, quy
tụ được thế lực mạnh, và có thể phản đảng.
Chính
CSVN đã thú nhận khi có chính sách sửa sai, trong cuộc thanh trừng này
có đến 23.000 đảng viên trung kiên bị chết oan; còn hàng ngàn đảng viên
không trung kiên bị chết một cách đích đáng thì chưa thấy tài liệu nào
của đảng công bố cả. Rất nhiều cán bộ cao cấp có công với kháng chiến
cũng bị kết tội cường hào ác bá, hoặc tham gia trong các tổ chức phản
động như VN Quốc Dân Ðảng chẳng hạn.
Theo
hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân, kỹ sư thuộc Bộ Thủy Lợi miền Bắc, trước
kia đã từng tham gia nhiều vụ Cải cách ruộng đất, cho biết 1 cuộc đấu
tố chụp mũ như sau :
“...Cuộc
đấu tố điển hình nhất mà tôi được dự là lần đấu tố ông Nguyễn Văn Ðô,
Bí thư huyện ủy tại Ô Cầu Giấy, ngoại thành Hà Nội. Nạn nhân Nguyễn Văn
Ðô là Bí thư huyện ủy, rất có công với kháng chiến nhưng lại bị kết tội
là cường hào ác bá và có chân trong tổ chức Quốc Dân Ðảng. Chủ tịch đoàn
nói rằng ông lợi dụng chức vụ của Ðảng để hoạt động cho Quốc Dân Ðảng.
Người đứng kể tội là 1 nông dân trước kia đi chăn ngựa cho ông Ðộ. Một
cụ già khác lên tố về việc cướp đất ruộng nương và cô con cái của ông
lên đấu tố là đã bị ông cưỡng hiếp tất cả 177 lần. Ðến khi ông Ðô được
phép lên phát biểu ý kiến nhận tội, ông đã cứng cỏi trả lời : Ông không
phải là Quốc Dân Ðảng, ông chỉ làm việc cho Bác, cho kháng chiến mà
thôi.
Ông
trả lời cô con gái là : "Thưa bà, bà còn quên đấy, tôi đã hiếp cả mẹ bà
để đẻ ra bà nữa”. Câu trả lời này làm mọi người phải bật cười và làm
đấu trường mất vẻ tôn nghiêm. Chủ tịch đoàn vội vàng hô khẩu hiệu “Ðả
đảo tên Ðô ngoan cố” để đàn áp và che lấp tiếng nói của ông. Sau đó họ
không cho ông nói tiếp. Họ nghị án và quyết định xử tử ông ngay tại chỗ.
Cuộc đấu tố này kéo dài từ 5g sáng tới 13g trưa mới xong".
CS ĐÀN ÁP DÃ MAN CUỘC NỔI DẬY
Sau
cái gọi là Nghị quyết sửa sai của đảng CSVN về những đợt Cải cách ruộng
đất đẫm máu, các nạn nhân đã tìm những cán bộ thanh toán món nợ truyền
kiếp. Các đảng viên CS trung kiên được thả về từ nhà tù, được khôi phục
quyền hành, khôi phục đảng tịch, liền tìm ngay các đồng chí đã tố sai để
trả thù. Do đó, tình trạng xung đột, giết chóc giữa đảng viên cũ và
đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy tín của đảng bị sụp đổ, cán bộ
hoang man, lo sợ tột độ.
Ở
nông thôn, các đảng viên đi họp phải mang búa theo để thảo luận với
nhau. Những địa chủ được tha về, thấy tình trạng làng xóm bất ổn như
vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở nhờ các gia đình tiểu tư sản hồi kháng
chiến đã trú ngụ ở nhà mình. Các bần cố nông trót nghe lời đảng tố điêu
nay sợ bị rạch mồm, cắt lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp
xích lô và đi ở thuê. Vì vậy, số dân ở Hà Nội, Nam Ðịnh đột nhiên tăng
lên gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố, ảnh hưởng
đến giới công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức, dùng báo chí
lên tiếng chống đảng, thì cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu đã làm đảng CSVN rất lo
sợ.
Toàn
thể nhân dân tỉnh Nghệ An, gồm đủ mọi thành phần giai cấp ở các xã
Quang Trung, Tân Nho, Diễn Tân, Vạn Kim, Diễn Ðức, Diễn Ðông, Diễn
Nguyên, Minh Châu, Ðức Vinh, Hồng Thăng, Ðại Gia, Yên Trung đã mở 1 đại
hội để tố cáo những chính sách cai trị tàn ác của chế độ. Ban tổ chức
đại hội còn mời luôn cả cán bộ VC thuộc cấp tỉnh và huyện đến tham dự để
chứng minh tinh thần đấu tranh cho tự do của nhân dân. Sau nhiều giờ
thảo luận, đại hội đã đồng thanh lập bản kiến nghị nguyên văn như sau :
- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi những vị linh mục chánh sở và tất cả những vị giáo sĩ bị bắt bớ giam cầm,
- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi xác các vị linh mục đã bị hành quyết và của những vị đã bị thủ tiêu,
- Yêu cầu trả lại những tài sản của địa phận, của thánh đường, của Ðức Mẹ đã bị chính quyền tịch thu hoăc xung công,
- Yêu cầu đền bồi thanh danh của các giáo sĩ đã bị nhục mạ và danh dự của các giáo hữu đã bị vu khống.
Cán
bộ VC rất căm tức những lời kết án của dân chúng. Lúc đầu họ nhất định
không ký tên, nhưng với áp lực của hàng ngàn người, họ bắt buộc phải ký
vào quyết nghị. Ban tổ chức đã gởi bản quyết nghị này đến 4 nơi : Tòa
thánh La Mã (qua trung gian của Ðức Khâm sứ Dooley), Ủy Ban Kiểm Soát
Ðình Chiến, Hồ Chí Minh và gởi đến chính quyền quốc gia miền Nam. Phía
CSVN đã tìm đủ mọi cách ngăn chặn bản quyết nghị đến tay Ủy Ban Kiểm
Soát Ðình Chiến.
Dân
chúng đã dùng ngay chính sách sửa sai của CSVN để đòi lại chồng con đã
bị giết, tài sản đã bị cưỡng đoạt và đòi được di chuyển tự do vào Nam
như đã cam kết trong Hiệp định Geneva. Giữa lúc đó, được tin chiều ngày
9-11-1956, Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến sẽ đi qua Cầu Giát để lên Hà Nội,
hàng ngàn người đã kéo ra đường số 1 chờ đợi. Ðồng bào đã góp đơn lại
giao cho 6 thanh niên đại diện đưa thư. Mấy ngàn đồng bào đã nằm ngay
trên đường để chận xe lại. Sáu thanh niên đã đưa cho viên sĩ quan Ấn Ðộ
trong Ủy Ban mấy vạn lá thư đựng trong bao bố. Viên sĩ quan này cho biết
sẽ trình lại cấp trên và trả lời vào ngày thứ Bảy trong tuần.
Sau
đó, ngày 10-11-1956, khoảng 10.000 nông dân đã mở đại hội lần thứ hai
tại xã Cẩm Trường để bàn thảo về ngày thứ Bảy. Mọi người đều tỏ ra hân
hoan khi biết sắp sửa từ bỏ địa ngục trần gian. Nhưng ngay lúc đó, CSVN
đã điều động 2 đại đội chủ lực và 1 đại đội công an võ trang huyện Diễn
Châu về xã Cẩm Trường để giải tán đại hội nông dân. Bạo động đã xảy ra.
Tiếng súng và lựu đạn nổ vang trời. Mặc dù tay không nhưng khí thế quần
chúng quá mạnh, những người phía sau đã tràn lên thay cho những người
gục ngã phía trước.
Cuối
cùng, dân chúng đã bao vây đồn bộ đội, công an vào giữa. Ðêm hôm đó, CS
đưa thêm 2 trung đoàn về bao vây 10.000 nông dân tại xã Cẩm Trường.
Dưới cơn mưa phùn lất phất cuối đông, cảnh tượng bi hùng đã diễn ra ở 1
trận địa giữa 10.000 nông dân và 2 vòng trong ngoài đầy những công an và
bộ đội. Tờ mờ sáng này 11-11-56, các bà mẹ đã đánh trống, mõ kêu gọi
dân chúng quanh vùng đến tiếp cứu. Xã Diễn Châu như bị động đất.
Rồi
30.000 nông dân kéo đến vây phía ngoài 2 trung đoàn chính quy của CS,
trở thành 1 vòng bao vây thứ tư. Cuộc nổi dậy bộc phát quá lớn, quá mau,
đã đi ra ngoài sự tiên liệu của cả 2 bên. Hồ Chí Minh rất căm hận biến
cố này vì Nghê An là quê quán của ông ta, nhưng Hồ Chí Minh chưa biết
cách giải quyết thế nào để gỡ thể diện cho mình và đảng. CS cũng tìm
cách liên lạc với Giám mục Trần Hữu Ðức nhờ ông giải quyết, nhưng ông đã
trả lời : “Tôi không biết về vấn đề chính trị, vì tôi là nhà tu hành”.
Lúc bấy giờ, phía dân chúng đã có 1 số lượng vũ khí đáng kể, tịch thu
được từ bộ đội. Chưa bao giờ 1 cuộc nổi dậy ở miền Bắc lại có đủ tất cả
thành phần dân chúng, kể cả các đảng viên CS.
Ðêm
11 rạng ngày 12-11-1956, một số nghĩa quân lén trở về Quỳnh Lưu để tổ
chức biểu tình yểm trợ cho dân quân xã Diễn Châu. Ðêm hôm đó, 3000 thanh
niên các xã Do Xuyên, Ba Làng và Nông Cống (tỉnh Thanh Hóa) đã kéo vào
yểm trợ nghĩa quân. 4g sáng cùng ngày, một Ủy Ban Biểu Dương Lực Lượng
Nông Dân Quỳnh Lưu và Ủy Ban Tiếp Tế Nghĩa Quân được thành lập. Phụ nữ,
trẻ em đã mang gạo, thực phẩm đến xã Cẩm Trường, nơi cuộc đấu tranh đã
bước vào ngày thứ 3.
Rạng
ngày 13-11-1956, một cuộc biểu tình vĩ đại với sự tham gia của gần
100.000 đồng bào tỉnh Nghệ An. Bài hát “Quỳnh Lưu Khởi Nghĩa” đã được
truyền đi khắp nơi, hoà với những đợt trống, mõ vang lên liên tục :
Anh đi giết giặc lập công
Con thơ em gửi mẹ bồng
Ðể theo anh ra tiền tuyến
Tiêu diệt đảng cờ Hồng
Ngày mai giải phóng
Tha hồ ta bế ta bồng con ta
Cuộc biểu tình đã tuần hành tiến về Ty Công an Ngệ An, hô thật to những khẩu hiệu: “Lương giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng các nghĩa quân”, “Lương giáo quyết tâm chống CS khát máu”, “Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt”…
Công an tỉnh lẩn trốn từ lâu trước khí thế này. Dân chúng thi nhau nhảy
lên nóc Ty Công an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đạp vỡ ảnh HCM và các lãnh
tụ CS quốc tế.
Trước
tình hình này, Hồ Chí Minh ra lịnh cho Văn Tiến Dũng điều động Sư đoàn
304 từ Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Ðồng Hới về bao vây nghĩa quân. Sư đoàn này
quy tụ nhiều bộ đội miền Nam tập kết mà Hồ Chí Minh muốn xử dụng, thay
vì dùng bộ đội sinh quán ở miền Trung hoặc miền Bắc, để có dịp trút tội
cho binh đoàn miền Nam nóng tính này. Trận địa tại xã Cẩm Trường đã lên
đến 5 vòng đai giữa dân quân và VC.
Buổi
chiều cùng ngày, nghe tin dân quân xã Cẩm Trường bị Sư đoàn 304 vây,
gần hàng chục ngàn người đã tiến về xã Cẩm Trường để tiếp cứu. Vòng đai
chiến trận đã tăng lên lớp thứ 6. Buổi tối ngày 13-11-1956, hơn 20.000
nông dân từ Thanh Hóa lại kéo vào tiếp viện, mang theo đầy đủ lương
thực, tính kế trường kỳ đấu tranh.
Ngày
14-11-1956, Văn Tiến Dũng huy động thêm Sư đoàn 312 vào trận địa quyết
tiêu diệt nhân dân Quỳnh Lưu. Khi vòng đai thứ 7 thành hình, Hồ Chí Minh
ra lịnh tiêu diệt cuộc nổi dậy có một không hai trong lịch sử đấu tranh
chống VC. Trước bạo lực đó, nông dân vẫn cứ quyết tâm tử chiến để bảo
vệ căn cứ. Lịnh của ban chỉ đạo nghĩa quân được truyền đi : Chiến đấu
đến giọt máu cuối cùng để giải phóng dân tộc.
Nhưng
vì vũ khí quá thô sơ, nghĩa quân phải rút vào rừng sâu. Sau khi trận
chiến kết thúc, quân đội VC đã xông vào các làng Thanh Dạ, Song Ngọc,
Cẩm Trường bắt tất cả già trẻ lớn bé giải đi. Họ tra khảo từng người để
tìm ra ban chỉ đạo đấu tranh nhưng vô hiệu, vì bất cứ ai, kể cả các em
thiếu nhi, đều tự xưng là người lãnh đạo cuộc cách mạng này. Không bắt
được ai, VC đành thả bà con ra về, nhưng Hồ Chí Minh tính kế bắt đi Linh
mục Hậu và Linh mục Ðôn của 2 xứ Cẩm Trường và Song Ngọc. Dù 2 vị này
đã nói: “Chúng tôi là nhà tu hành, chúng tôi không biết gì đến việc nhân
dân”, nhưng cũng bị công an kéo lê lên xe giải về Hà Nội.
CS
bắt 2 vị linh mục phải lên đài phát thanh đổ lỗi cho giáo dân và nông
dân, nhưng 2 vị không băng lòng. CS đe dọa nếu không tuyên bố như vậy
thì sẽ giáng tội cho 2 vị là những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa phản
động này. Họ mang hình ảnh Linh mục Tấn bị thủ tiêu ở Phủ Quỳ ra dọa
nạt. Cuối cùng, 2 vị phải tuyên bố ngược lại sự thật.
Dù
nhà cầm quyền CS vẫn cố tình che giấu, xuyên tạc cuộc nổi dậy của nhân
dân Quỳnh Lưu cho đến ngày hôm nay, dù họ đã dùng bạo lực đàn áp, giết
chóc và đày ải hơn 6.000 nông dân trong biến cố Quỳnh Lưu, nhưng tinh
thần yêu nước, can trường của người dân các tỉnh miền Trung nói chung,
và ở tỉnh Nghệ An nói riêng, đã soi sáng cho các thế hệ sau con đường
chính nghĩa để đòi lại tự do.
Người
CS rồi sẽ không thể nào dùng những bàn tay giết người che lấp nổi mặt
trời. Những việc làm của họ rồi sẽ được phơi bày ra ánh sáng.
Ðòi
cho bằng được tự do, công bằng, quyền căn bản của con người không thể
xem là một cái tội. Dùng bạo lực để áp đặt một tội danh là gieo nỗi oan
khuất cho cả một dân tộc. Nỗi oan khuất đó đã chồng chất đến trời xanh.
Nói về những nỗi oan sống dưới chế độ CS thì không biết bao nhiêu mà kể.
Với
những nỗi oan của những người đã chết, oan khiên đeo nặng những người
còn sống, đảng CSVN đã giải quyết ra sao? Chỉ là sự im lặng.
Thời
gian cũng đủ chứng minh CSVN không thể trả lời. Nhưng người dân VN có
thể sẽ tự trả lời khi cao trào thèm khát cuộc sống tự do dân chủ tới hồi
chín muồi. Tiếng trống bi hùng của đồng bào Quỳnh Lưu 60 năm về trước
vẫn còn vọng về thúc giục người có lòng ái quốc, thương nòi trong chúng
ta. Bài hát vang trong bầu trời Quỳnh Lưu như nhắn nhủ gọi người can
trường đi tìm chân lý của cuộc sống : con người sinh ra phải được tự do
(trích bài viết của tác gỉa Cẩm Ninh).
Dù
nhà cầm quyền CS vẫn cố tình che giấu, xuyên tạc cuộc nổi dậy của nhân
dân Quỳnh Lưu cho đến ngày hôm nay, dù họ đã dùng bạo lực đàn áp, giết
chóc và đày ải hơn 6.000 nông dân trong biến cố Quỳnh Lưu, nhưng tinh
thần yêu nước, can trường của người dân các tỉnh miền Trung nói chung,
và ở tỉnh Nghệ An nói riêng, đã soi sáng cho các thế hệ sau con đường
chính nghĩa để đòi lại tự do.
Blog Cuộc Sống Vươn Lên
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen