Việt Minh giết Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ và lãnh tụ giáo phái ở Nam Kỳ
Hứa
Hoành
Trong
lịch sử chống ngoại xâm, chưa có cuộc chiến tranh vệ quốc nào kỳ cục như cuộc
kháng chiến chống Pháp vào năm 1945 mà CS gọi là “Cách mạng tháng 8″. Dùng thủ
đoạn mua chuộc, dụ dỗ, lừa bịp, gây chia rẽ, khủng bố, tàn sát… để chiếm cho
được chính quyền trong tay người quốc gia, Việt Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến
đi lòng vòng, phí biết bao nhiêu nhân lực, vật lực, tài lực, đến khi chiến thắng
thì đất nước đã khánh tận. Kéo dài cuộc kháng chiến để họ có đủ thời giờ “hy
sinh những người anh em” ngoài đảng. Nhờ những người này, đảng CS mới hưởng được
vinh quang.
Bài
này kể lại những điều tai nghe mắt thấy của người trong cuộc. Có người theo suốt
cuộc kháng chiến tới ngày thành công, có người bỏ cuộc vì thấy rõ dã tâm của
người CS, có người là nạn nhân của những vụ ám sát hụt, có kẻ bàng quang. Dù ở
cương vị nào, hoàn cảnh nào, ai cũng thấy rõ một điểm chung : tính chất lừa bịp
của CS, sư lừa bịp vĩ đại hào nhoáng nhứt trong lịch sử của dân tộc VN. Chúng ta
cũng nên nghiêng mình trước các anh hùng liệt sĩ đã xả thân chiến đấu và bị lợi
dụng, không chết trước họng súng kẻ thù thực dân Pháp mà lại chết vì sự khủng bố
tàn nhẫn của người CS.
Lâm Ủy Hành Chánh của Trần Văn Giàu được
thành lập vào ngày 24/8/45, thì hôm sau “Quốc Gia Tư Vệ Cuộc” ra đời. Trái ngược
với tên gọi, Quốc Gia Tư Vệ Cuộc không phải là lực lượng kháng chiến chống quân
thù, mà lại có nhiệm vụ lùng sục, bắt bớ, thủ tiêu đồng bào bằng hình thức chặt
đầu, mổ bụng, cho “mò tôm”, móc mắt, cắt lưỡi, và nhiệm vụ khác là…bảo vệ sinh
mạng của những kẻ đã ra lịnh tàn sát đồng bào, tức là lãnh đạo Việt Minh ở Nam
Bộ. Quốc Gia Tư Vệ Cuộc vào buổi đầu thâu dụng những thành phần sống ngoài vòng
pháp luật, những tên dao búa, những tên trôi sông lạc chợ, đầu trộm đuôi cướp
như Tô Ký, Ba Nhỏ, Đào Công Tâm, Kiều Đắc Thắng, Bửu Vinh, Hoàng Thọ… Sẵn hận
thù chất chứa, nay có quyền sinh sát, lại quen nghề chém giết, nhóm Quốc Gia Tư
Vệ Cuộc giết người tàn bạo còn hơn đối với thực dân Pháp. Lúc đó Lâm Ủy Hành
Chánh đóng vai trò như một chính phủ của miền Nam, một chính phủ giành giựt của
người khác, nhưng không có quân đội thì làm sao kháng chiến
Bốn
sư đoàn dân quân được Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất (các hội đoàn chính trị và
tôn giáo của Nam Bộ) thành lập hôm 17/8/45, trong khi đó thì Việt Minh không có
sư đoàn nào. Vì thế CS phải tìm cách giải tán, tìm cách phá nát. Lựa trong “đám
mặt rằng”, Lâm Ủy Hành Chánh phong chức :
- Kiều
Đắc Thắng nắm toàn quyền sinh sát với chức “Giám đốc Công an miền Đông”
- Dương
Bạch Mai (8/1929, đã từng qua Liên-xô học trường Stalin cùng lượt với Trần Văn
Giàu, có bí danh là Bourov). Thanh tra chính trị miền Đông, cũng là 1 hung thần
nhưng không có quân hành động trực tiếp.
- Ba
Nhỏ, Trưởng bọn ám sát, bắt cóc, thủ tiêu theo mật linh. Phạm vi của Ba Nhỏ là
Saigon, Chợ Lớn
- Lý
Huê Vinh, công an, cánh tay đắc lực của Trần Văn Giàu, chuyên hạ sát các lãnh tụ
quốc gia
- Đào
Công Tâm, trước là lính trong toán của Ba Nhỏ. Thấy Tâm giết người không gớm
tay, Việt Minh nâng đỡ, cho làm Chính trị viên Tiểu đoàn 66 của Long
Xuyên..
Với
những tay giết người chuyên nghiệp, say máu, mệnh danh là “Quốc Gia Tư Vệ Cuộc”
do Nguyễn Văn Trấn (tác giả “Viết cho mẹ và quốc hội”), trong những năm kháng
chiến, Việt Minh đã gieo kinh hoàng cho tất cả mọi người ở Nam Bộ
· Ai giết Đức Thầy Huỳnh Phú
Sổ?
Cuộc
kháng chiến của toàn dân khởi đi trong bầu không khí sôi nổi, phấn khởi vô cùng.
Tháng 9/45, hầu như tất cả dân chúng miền Nam đều ủng hộ Việt Minh. Nhưng chỉ
vài tháng sau đó, với chính sách sắt máu như bắt cóc, cho “mò tôm”, chặt đầu,
móc mắt, cắt lưỡi, mổ bụng, những nạn nhân bị chụp mũ “Việt gian”, “phản động”,
“phản cách mạng”, đã tạo ra mộ làn sóng căm phẫn bao trùm đất nước. Cuộc kháng
chiến do đó mà bị xẹp lép như trái banh xì hơi. Những người còn sống sót, con
cháu của các nạn nhân đi tìm chỗ tỵ nạn, họ buộc lòng phải “về thành” để tránh
bị Việt Minh tàn sát lần nữa. Họ đành chịu mang tiếng là “hợp tác với giặc
Pháp”. Sinh lực kháng chiến tiêu tan ngay, tạo đà cho quân Pháp chiếm lại các
tỉnh miền Nam một cách dễ dàng chỉ trong vòng…4 tháng.
Chỉ
trong vòng có 2 tháng trời, giành quyền đại diện dân chúng miền Nam, Việt Minh
đã biến tình đoàn kết thành nội thù. Các vụ giết người mờ ám, các vụ khủng bố
đẫm máu… đã làm cho dân miền Nam thức tỉnh. Phi nghĩa và làm mất thế đoàn kết
ngay khi Việt Minh ra lịnh đàn áp đẫm máu cuộc biểu tình của Phật Giáo Hòa Hảo
tại Cần Thơ. Theo lịnh Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ để chống lại tình trạng độc tài của
Việt Minh, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo các vùng lân cận tỉnh Cần Thơ và một số thị
dân kéo về biểu tình rầm rộ với tay không và biểu ngữ. Cuộc biểu tình có xin
phép Chủ tịch Ủy ban Hành chánh là ông Trần Văn Khéo. Sáng sớm ngày 8/9/45, khi
đoàn biểu tình với một số “bảo an” với tầm vong vạt nhọn thì làm sao chống lại
với súng đạn ! Trước đó, Việt Minh đã mời đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo ở Cần
Thơ là các ông Huỳnh Thạnh Mậu (bào đệ Đức Thầy), Nguyễn Xuân Thiếp (anh họ nhà
văn Nguyễn Hiến Lê) và Trần Văn Hoành (con trai ông Năm Lửa) đến thương thuyết
nhưng thất bại. Nhiều người tham dự cuộc biểu tình này chỉ có tay không với bình
nước uống, vừa từ dưới ghe cặp bến, đã bị tự vệ của Việt Minh bắn chết ngay tại
bờ sông. Trong vụ thảm sát này, ông Hoàng Quốc Kỳ, một người kháng chiến tập kết
về Bắc, gặp lại bạn cũ, là ngươi đã xả súng bắn vào nhóm biểu tình ấy, kể lại
như sau :
“Nguyễn
Văn Nghệ, một tay súng tiểu liên đầu đàn của Vệ quốc đoàn miền Tây Nam Bộ (CS),
kể lại trận “tắm máu đó”: Tụi Hòa Hảo gan cùng mình ! Lớp này ngả xuống, lớp
khác tiến lên, cả đàn bà con nít cũng vậy. Bóp cò đến rung cả tay, máu loang đỏ
hết cả mặt đường mà chúng nó vẫn nhào vô họng súng. Chiến sĩ ta đã tản thần
nhưng lịnh bắt phải bắn tiếp”
Đàn
áp xong, Việt Minh dùng xe có loa phóng thanh chạy khắp đường phố loan tin: Hòa
Hảo dùng ghe vượt sông Cần Thơ, đổ bộ vào châu thành, bị “Vệ quốc đoàn” đẩy
lui.
Rồi
Việt Minh kết án: Hòa Hảo âm mưu cướp chính quyền ở Cần Thơ !
Mới
2 hôm trước, vì bị chỉ trích độc tài, Lâm Ủy Hành Chánh xin cải tổ, đề Phạm Văn
Bạch thay thế chức chủ tịch (hư vị), Trần Văn Giàu vẫn nắm quân sự. Ủy ban Hành
chánh cố khẩn mời Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ làm cố vấn đặc biệt. Trở mặt như chong
chóng, đêm 9/9/45, Trần Văn Giàu mật lệnh cho Tự vệ, Thanh Niên Tiền Phong tới
bao vây trụ sở Phật Giáo Hòa Hảo tại góc đường Miche và Sohier (Phùng Khắc
Khoan) để bắt Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, nhưng chỉ bắt được mấy trăm tín đồ. Liên
tục những ngày kế tiếp, Việt Minh mở chiến dịch khủng bố Phật Giáo Hòa Hảo. Họ
ra lịnh truy lùng, bắt cóc, thủ tiêu các nhân sĩ có uy tín của Phật Giáo Hòa Hảo
như Chung Bá Khánh, Lâm Thành Nguyên, Võ Văn Thời, Trương Đại Lượng, Lý Công
Quận, Nguyễn Hữu Trinh… Cũng cần nhắc lại thêm rằng, hôm 5/9/45, Nguyễn Thành
Sơn, Thanh tra chính trị miền Tây, có mời ông Chung Bá Khánh với tư cách đại
diện cho Phật Giáo Hòa Hảo đi thuyết trình ở Sóc Trăng mà Dương Kỳ Hiệp (thân
Cộng) làm chủ tịch và Tạ Bá Tòng (CS) làm phó. Một số lớn người bị bắt ở Cần Thơ
như Chung Bá Khánh, Lâm Thành Nguyên, Võ Văn Thời, Đỗ Hữu Thiều bị đem giam ở
Trà Vinh. Sau đó, Việt Minh đem họ xuống Ba Động, một làng ven biển, để trấn
nước chết. Riêng ông Lâm Thành Nguyên, nhờ biết lội, bình tỉnh cởi trói, bơi vào
bụi rậm ẩn núp, trốn thoát được. Một tháng sau cuộc biểu tình ở Cần Thơ, Việt
Minh đem các ông Huỳnh Thạnh Mậu (bào đệ Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ), Nguyễn Xuân
Thiếp, Trần Văn Hoành ra xử bắn tại sân banh Cần Thơ.
Vì
đại nghĩa quên thù nhà (em ruột là Huỳnh Thạnh Mậu bị Việt Minh xử bắn chết tại
sân banh Cần Thơ), lại mới thoát nạn đột kích của Việt Minh, nhưng Đức Thầy
Huỳnh Phú Sổ, cũng lòng từ bi hỉ xả, một lần nữa lại chủ trương đoàn kết dân
tộc, thành lập Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Gia Kháng Chiến, cho phép thành phần CS
tham gia. Chính ông cũng nhiều lần kêu gọi mọi người hãy bỏ qua hiềm khích để
bảo vệ tổ quốc lâm nguy.
Mặt
Trận Liên Hiệp Quốc Gia Kháng Chiến ra đời vào ngày 20/4/46, gồm đại diện các
đảng phái chính trị, tôn giáo, Bình Xuyên và CS nữa.
Thành
phần lãnh đạo gồm :
-
Chủ tịch : Hoàng Anh (bí danh của Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ)
-
Phó chủ tịch : Vũ Tam Anh
-
Thư ký : Mai Thọ Trân
-
Tuyên truyền : Lê Trung Nghĩa (ký giả)
-
Ủy viên quân sự : Huỳnh Văn Trí (Mười Trí)
Phía
CS tham gia mặt trận này gồm có: Phạm Thiều, Mai Thọ Trân (chính trị), Phan Đình
Công, Huỳnh Tấn Chùa (quân sự).
Thâm
tâm của CS khi gia nhập Mặt trận chỉ là để xâm nhập, lủng đoạn, phá hoại và lôi
kéo Mặt trận ngả về phía CS. Âm mưu này thất bại, Tướng Nguyễn Bình (CS) tung ra
một tổ chức khác, có tên gọi na ná giống nhau, tức Hội Liên Hiệp Quốc (Gia) VN,
gọi tắt là Hội Liên Việt. Từ đó, các phần tử CS trong Mặt Trận Liên Hiệp Quốc
Gia Kháng Chiến được lịnh rút khỏi mặt trận này.
Cho
tới nay, dư luận và nhiều sách báo xuất bản tại miền Nam, đều quy tội cho Bửu
Vinh chính là kẻ sát nhân. Ông Nguyễn Long Thành Nam, được coi như người phát
ngôn chính thức của Phật Giáo Hòa Hảo đã viết trong Phật Giáo Hòa Hảo Trong Dòng
Lịch Sử Dân Tộc, trang 430 :
“…Hôm
sau, Đức Thầy nhận được 2 văn thơ, một của Trần Văn Nguyên, đặc phái viên, kiêm
Thanh tra Chính trị Miền Đông Nam Bộ, và một của Bửu Vinh, mời Ngài đến dự hội
nghị, họp tại làng Tân Phú, để định liệu kế hoạch hòa giải Việt Minh và Hòa Hảo
Dân Xã (sau ngày Hồ Chí Minh và Moutet ký Tạm ước 14/9/46 tại Paris, vào
21/9/46, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ thành lập Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng tức Dân
Xã; lúc đầu đảng này có khuynh hướng hòa giải với Việt Minh). Vào 7g sáng ngày
15/4/47 (24 tháng 2 nhuần), Đức Thầy xuống ghe đi với 3 người chèo, 4 tự vệ
quân, ông Đại đội trưởng Đại đội 2 và người thơ ký văn phòng là ông Huỳnh Hữu
Thiện. Lối 8g sáng, ghe tới chợ Ba Răng, có Trần văn Nguyên xuống đón Ngài lên
chợ. Ngài đi diễn giảng trước đám dông người, kêu gọi đoàn kết chống xâm lăng,
và gạt bỏ hận thù giữa Việt Minh và Dân Xã. Trưa lại, Ngài dùng cơm với Trần Văn
Nguyên và một thơ ký xuống đi chung ghe với Ngài đến Đốc Vàng hạ, thuộc thôn Tân
Phú. Đến đây, một bản hiệu triệu được công bố cho biết các cấp chỉ huy 2 bên bắt
tay nhau lo việc hòa giải, và kêu gọi 2 bên đừng xô sát nhau. Sau khi dùng cơm
chiều, Đức Thầy lại nghỉ ở nhà một tín đồ gần đó. Hôm sau, ngày 16/4/47, lối 7g
sáng, Đức Thầy trở lại hội đàm với Trần Văn Nguyên, rồi phái ông Ngô Trung Hưng
cùng 1 nhân viên của Trần Văn Nguyên đi các thôn hòa giải. Sau khi dùng bữa cơm
trưa, Đức Thầy xuống ghe nghỉ, thì Bửu Vinh báo cáo rằng “Dân Xã giết Việt Minh
ở Lấp Vò”, và buộc Đức Thầy phải đi, nhưng Ngài tỏ ra cương quyết biện bác và
đòi Bửu Vinh cùng đi. Bửu Vinh khước từ và đòi phải có bộ đội võ trang theo
phòng vệ thì mới đi. Ngài trả lời một cách cứng cỏi
-
Tại sao tôi có một ít người, không có bộ đội ủng hộ, mà lại dám vào sào huyệt
của các ông ? Như thế quí ông không thành thật. Bửu Vinh không trả lời được, nên
buộc lòng phải đi và yêu cầu Đức Thầy đến văn phòng của y để cùng đi. Liền lúc
đó, Trần Văn Nguyên đến trao cho Ngài một mảnh giấy nói rằng: “Có điện tín từ Ủy
ban Hành Chánh Nam Bộ mời Đức Thầy trở về miền Đông lập tức để dự phiên họp bất
thường. “Đức Thầy trả lời “Không thể trở về dự phiên họp được, vì còn lo việc
hòa giải”.
Chiều
hôm ấy, Trần Văn Nguyên từ giã Ngài vào lúc nhá nhem tối.
Y
hẹn, Đức Thầy xuống ghe, đến văn phòng Bửu Vinh, có một liên lạc viên dẫn dường.
Trời tối đen như mực, bỗng có tiếng kêu
-
Ghe ai đó ? Sao giờ này đã thiết quân lực mà còn dám đi?
Người
liên lạc viên trả lời :
-
Đi lại văn phòng ông Bửu Vinh
”Liền
đó, có lịnh biểu ghe ghé lại. Rồi đèn chói rọi xuống, khi biết là ghe của Đức
Thầy, chúng nói :
-
Ông Bửu Vinh mời Đức Thầy lên văn phòng
Đức
Thầy cùng 4 tự vệ lên một ngôi nhà ngói. Ngài vào ngồi bàn giữa, nói chuyện với
Bửu Vinh, còn 4 tự vệ quân cầm súng đứng 2 bên, gần cửa. 10 phút sau, lối 7g30,
có 8 người từ bên ngoài đi vào, chia làm 4 cặp, tràn tới đâm 4 tự vệ quân. 3
người bị đâm chết, chỉ còn người thứ tư là Phan Văn Tỷ lanh trí nên tránh kịp,
liền thoát ra ngoài, bắn một loạt tiểu liên. Trong lúc anh Tỷ né, thì 1 trong 2
tên Việt Minh bị đồng bọn của mình đâm chết.
Thấy
chuyện chẳng lành, Đức Thầy lanh lẹ thổi tắt ngọn đèn, văn phòng trở nên tối
đen, không ai nhận ra Đức Thầy đâu cả..
Chúng
tôi may mắn được hầu chuyện cùng ông Lâm Quang Phòng, một nhân vật tên tuổi của
miền Tây thời kháng chiến. Năm nay ông đã 81 tuổi, tinh thần vẫn còn khang kiện.
Ông từ tốn, không muốn kể lại thành tích của bộ đội mình, nhưng chúng tôi tìm
hiểu thêm trong các tài liệu thì bộ đội Lâm Quang Phòng ra đời trong hoàn cảnh
miền Nam vùng lên chống Pháp vào cuối năm 1945. Bộ đội Lâm Quang Phòng tự tuyển
mộ, trang bị võ khí và lập nhiều chiến công vang dậy khắp miền Tây Thành tích
lớn nhất là cướp được chiến xa của Pháp từ biên giới Miên tràn qua Hà Tiên, đem
về triển lãm cho dân chúng Hà Tiên xem. Chiến lợi phẩm ấy còn vẻ vang hơn 2 cây
súng đại bác 105 ly lấy được trong trận chiến thắng Tầm Vu (Cần Thơ) năm 1948,
do Huỳnh Phan Hộ chỉ huy. Thành tích này không bao giờ được CS nhắc tới trong
các tài liệu, sử sách của họ, chỉ vì ông Lâm Quang Phòng không phải là đảng viên
CS.
Khi
bác sĩ Việt Minh là Nguyễn Công Trung than rằng “Thiếu dụng cụ y khoa để mổ xẻ
cứu các thương binh” thì bộ đội Lâm Quang Phòng tình nguyện đánh vào Bạc Liêu,
chiếm bịnh xá, tịch thu hết dụng cụ y khoa và thuốc men về cho họ. Năm 1947, ông
Lâm Quang Phòng là Đại đội trưởng Đại đội 64 Hà Tiên, còn Bửu Vinh là Đại đội
trưởng Đại đội 66 Long Xuyên.
Ông
Lâm Quang Phòng quả quyết rằng : “Chính Đào Công Tâm, Chính trị viên của Đại dội
66 (Việt Minh) chủ động hạ sát Đức Thầy vào họp, rồi ùa ra đâm loạn đã vào mọi
ngươi (tự vệ quân của Đức Thầy) khi đèn tắt. Đào Công Tâm đã hạ sát Đức Thầy chớ
không phải Bửu Vinh. Nói như vậy không phải Bửu Vinh là kẻ vô tội. Hắn đồng lõa,
sắp đặt âm mưu như Trần Văn Nguyên. Chính Đào Công Tâm còn lấy được một cây súng
nhỏ (6.65) của Đức chế tạo (?) do Ủy ban Hành chánh Nam Bộ tặng Đức Thầy khi ông
nhậm chức cố vấn đặc biệt trước đây. Cây súng ấy, bá súng có nạm vàng, và Đào
Công Tâm đã trao cây súng lại cho Phan Trọng Tuệ, lúc đó là Chính ủy Khu
9.
Theo
ông Lâm Quang Phòng thì Bửu Vinh là người thuộc hoàng phái, trước làm thơ ký kho
bạc tại một tỉnh miền Trung, thụt két, bỏ trốn vào Nam. Vinh làm đủ mọi nghề lao
động chân tay, trốn tránh ngoài vòng pháp luật. Có lúc Vinh trôi dạt tới Phú
Quốc, gia nhập bộ đội Lâm Quang Phòng của ông. Vinh đánh giặc gan lì, hiếu sát,
nên được cử là Tiểu đội trưởng. Ít tháng sau, Vinh ngả theo Việt Minh. Với khả
năng giết người chuyên nghiệp, Vinh như người tìm được vận hội mới. Đầu năm
1947, Vinh làm Đại đội trưởng Đại đội 66 Long Xuyên của Việt Minh.
Còn
Đào Công Tâm là người Hải Phòng vào Nam sinh sống khá lâu. Từ chỗ làm phu đồn
điền ở Hớn Quản (như Lê Đức Anh), Tâm bỏ trốn xuống Saigon làm phu khuân vác và
đủ các nghề chân tay để sống. Khi Việt Minh cướp chính quyền, dung nạp các thành
phần bất hảo, Tâm liền gia nhập “Quốc Gia Tự Vệ Cuộc”, tức công an. Vốn hận thù
những người may mắn, giàu có hơn, nên Tâm say máu giết người. Từ chức Tiểu đội
trưởng Tự Vệ, Tâm tiến lên Trung đội trưởng và được đề bạt làm Chính trị viên
Đại đội 66 của Bửu Vinh. Đầu trộm đuôi cướp gặp nhau, họ làm việc rất tương đắc.
Đại đội này đánh Pháp thì ít, mà chận đánh các bộ đội của người quốc gia thì
nhiều. Tâm có vóc người ốm, dong dỏng cao, lưng hơi khom, mắt ti hí, người Nam
gọi mắt lươn, môi chì, mặt mét. Nghề rình rập, truy lùng, ám sát, thủ tiêu rất
hợp với khả năng của Tâm.
Nhưng
ai đã từng ở trong kháng chiến thời đó tại Miền Tây Nam Bộ chắc đều biết vụ Việt
Minh ngụy tạo vụ án “Hòa Hảo ăn thịt người” để tuyên truyền lừa bịp. Sau vụ đàn
áp cuộc biểu tình của Hòa Hảo đẫm máu tại Cần Thơ, dân chúng, tín đồ Miền Tây xa
lánh họ. Việt Minh lại trình diễn luôn 2 màn lừa bịp mới. Thứ nhứt, để lợi dụng
các tôn giáo, năm 1949, theo chỉ thị của Lê Duẩn, tổ chức “Đại Hội Liên Tôn Quốc
Doanh” ở xã Tân Duyệt, Bạc Liêu. Tôn giáo nào cũng có đại diện, trừ Hòa
Hảo.
Ông
Hoàng Quốc Kỳ kể lại vụ lừa bịp không tiền khoáng hậu ấy như sau :
”…Sau
Đại Hội Liên Tôn, hắn (Duẩn) sai những tên đảng viên CS ác ôn, thân tín nhất,
chọc tiết cả chục tù nhân rồi chặt đầu, xẻ thịt y như người ta ra thịt heo, bày
bán giữa ban ngày trên bờ sông Vịnh Chèo, thuộc tỉnh Cần Thơ. Ghe xuồng nào đi
ngang qua cũng bị chặn lại, dí súng, dao găm vào cổ, bắt phải mua thịt… người.
Đến khúc sông vắng, người ta vội vàng vứt xuống sông để khỏi ói mửa. Rồi các ty
tuyên truyền khắp Nam Bộ đem triển lãm hàng trăm tấm ảnh cỡ 18-24 chụp thớt thịt
trên sông Vịnh Chèo, với những chiếc đầu lâu, những cánh tay còn nguyên ngón,
kèm lời “thuyết minh”: “Bọn Hòa Hảo man rợ ở Cần Thơ đã giết cán bộ và thường
dân không chịu theo chúng, rồi xẻ thịt bày bán trên sông Vịnh Chèo, bắt dân
chúng mua về ăn. Ai không chịu bỏ tiền ra mua, chúng liền giết ngay tại chỗ, rồi
xẻ thịt người ấy bày lên thớt…»
Tuy
xảo quyệt và gian trá như thế, nhưng Việt Minh không lừa bịp được ai. Người dân
địa phương đã vạch mặt nhóm giết người dã man ấy, nếu nói Hòa Hảo thì cả quận
này người ta đều quen biết nhau hết, và họ đâu có thấy dân địa phương đứng bán
thịt… người. Nhưng đó là những người có giọng nặng trịch, khó nghe… Với chiến
dịch tuyên truyền lừa bịp này vừa tung ra, tự nó đã xẹp ngay vì nó lộ liễu
quá….” (Ma Đầu Hồ Chí Minh, Hoàng Quốc Kỳ, trang 128).
Trong
thời kháng chiến, Việt Minh giết người, mổ bụng, trói thúc ké xuống cho “mò
tôm”. Mấy hôm sau, thây ma sình thúi, trôi lều bều. Việt Minh lại đi rỉ tai dân
chúng :”Hòa Hảo giết người đấy !
· Việt Minh phá nát sư đoàn Việt Nam
Quốc Dân Đảng
Nguyễn
Hòa Hiệp xuất thân trong một gia đình điền chủ tại Phú Long, tỉnh Thủ Dầu Một
(tức Sông Bé). Sau khi đậu Diplôme, ông làm Tham tá Bưu điện. Năm 1929, Nguyễn
Hòa Hiệp cùng Nguyễn Phương Thảo, tức Nguyễn Bình sau này, cũng gia nhập Việt
Nam Quốc Dân Đảng, hệ phái miền Nam. Giữa tháng 8/1945, Mặt Trận Quốc Gia Thống
Nhất ra đời, tập họp toàn dân kháng Pháp, quyết định lập 4 sư đoàn dân quân.
Nguyễn Hòa Hiệp được cử làm Chỉ huy trưởng Đệ tam sư đoàn, Lý Hồng Chương làm
phó.
Thấy tình hình Nam Bộ còn nhiều đơn vị kháng chiến không chịu nhận mệnh lệnh CS, Hồ Chí Minh cử Ngyễn Bình vào “thống nhứt các lực lượng quân sự” ấy. Những ai đầu phục, họ thu nhận, rồi tìm cách ám sát. Những đơn vị nào không hợp tác, Bình tìm cách phá nát. Ăn không được thì phá cho hôi chính là chủ trương của Việt Minh. Đệ Tam sư đoàn có lực lượng “Dân Quốc Quân” làm nồng cốt, nên có kinh nghiệm chiến đấu. Nhiều lần Việt Minh chiêu dụ, mua chuộc không được, họ tìm cách tiêu diệt. Nguyễn Bình ra lịnh : Khi các sư đoàn dân quân di chuyển tới đâu, các Ủy ban Hành chánh địa phương cấm giúp đỡ. Dân địa phương bị cấm liên lạc, tiếp xúc với họ. Đệ Tam sư đoàn lâm vào tình trạng bị phong tỏa, cô lập. Để tránh tan rã, Nguyễn Hòa Hiệp quyết định cùng một số đơn vị chiến đấu khác, phải bỏ Khu 7 (các tỉnh miền Đông), rút về Hậu Giang. Trên đường di chuyển, đơn vị này đụng độ với 2 đại đội của Việt Minh: Chi đội 18 của Nguyễn Văn Xuyến và Chi đội 12 của Nguyễn Tấn Chùa chận đánh… Do sự chỉ điểm của Nguyễn Bình, Pháp oanh tạc nhiều lần, binh sĩ của Đệ Tam sư đoàn tử thương rất nhiều, trong số đó có thi sĩ Khổng Dương (Trương Văn Hai) tử nạn ở Xẻo Rô, trên đường về Long Xuyên.
Thấy tình hình Nam Bộ còn nhiều đơn vị kháng chiến không chịu nhận mệnh lệnh CS, Hồ Chí Minh cử Ngyễn Bình vào “thống nhứt các lực lượng quân sự” ấy. Những ai đầu phục, họ thu nhận, rồi tìm cách ám sát. Những đơn vị nào không hợp tác, Bình tìm cách phá nát. Ăn không được thì phá cho hôi chính là chủ trương của Việt Minh. Đệ Tam sư đoàn có lực lượng “Dân Quốc Quân” làm nồng cốt, nên có kinh nghiệm chiến đấu. Nhiều lần Việt Minh chiêu dụ, mua chuộc không được, họ tìm cách tiêu diệt. Nguyễn Bình ra lịnh : Khi các sư đoàn dân quân di chuyển tới đâu, các Ủy ban Hành chánh địa phương cấm giúp đỡ. Dân địa phương bị cấm liên lạc, tiếp xúc với họ. Đệ Tam sư đoàn lâm vào tình trạng bị phong tỏa, cô lập. Để tránh tan rã, Nguyễn Hòa Hiệp quyết định cùng một số đơn vị chiến đấu khác, phải bỏ Khu 7 (các tỉnh miền Đông), rút về Hậu Giang. Trên đường di chuyển, đơn vị này đụng độ với 2 đại đội của Việt Minh: Chi đội 18 của Nguyễn Văn Xuyến và Chi đội 12 của Nguyễn Tấn Chùa chận đánh… Do sự chỉ điểm của Nguyễn Bình, Pháp oanh tạc nhiều lần, binh sĩ của Đệ Tam sư đoàn tử thương rất nhiều, trong số đó có thi sĩ Khổng Dương (Trương Văn Hai) tử nạn ở Xẻo Rô, trên đường về Long Xuyên.
· Tội ác của Việt Minh đối với Cao
Đài
Tiêu
diệt tôn giáo, đảng phái là chủ trương của người CS ngay khi họ nắm được chính
quyền ở Nam Bộ bằng cái “Lâm Ủy Hành Chánh”. Nếu Trần Văn Giàu đã gieo tang tóc
cho Nam Bộ đang lâm chiến bao nhiêu, thì tội ác của Tướng Nguyễn Bình đối với
tôn giáo, đảng phái cũng tày trời bấy nhiêu.
Thủ
đoạn của Việt Minh là mua chuộc, lôi kéo về phe họ, phục vụ quyền lợi của họ,
làm viên gạch lót đường, làm con chốt hy sinh. Ai ngoan ngoãn thì lợi dụng có
giai đoạn, sau đó tìm cách ám sát, gọi là “tử trận”, “hy sinh”,… Biết rõ âm mưu
này, Cao Đài bất hợp tác, bị Việt Minh đánh phá, phải kéo về Tây Ninh để khỏi bị
tiêu diệt. Thất bại, Việt Minh lập một kế hoạch lừa bịp mới : lập nhóm Cao Đai
ly khai ở Bạc Liêu, chiêu dụ họ đứng về “phe kháng chiến”. Việc chống xâm lăng
là một nghĩa vụ của người dân, một tín đồ, nhưng phục vụ riêng cho quyền lợi của
CS thì tôn giáo nào cũng từ chối. Phái Cao Đài Minh Chơn của ông Cao Triều Phát
và Trần Đạo Quang ở Bạc Liêu đã bị lừa vào cái bẩy sập đó.
Cao
Triều là một dòng họ lớn, nhiều người là đại điền chủ, có con cái ăn học bên
Tây. Cao Triều Phát là một trong những cự phú xứ “công tử coi tiền như rác”.
Giàu có lớn, Cao Triều Phát là người có tâm đạo, làm việc nghĩa, tính tình hiền
lành. Từ khi biết mình bị lừa vào hang cọp, ông âm thầm chịu đựng, đóng trọn vai
trò lừa bịp do CS dàn dựng. Từ khi khai đạo tại Tây Ninh, Cao Đài lần lượt chia
nhiều hệ phái: Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Bến Tre của Lê Kinh Ty, Nguyễn Ngọc
Tường, và Cao Đài Minh Chơn Hậu Giang của ông Cao Triều Phát và chưởng pháp Trần
Đạo Quang.
Năm
1932, Thánh thất Cao Đài Minh Chơn đặt tại Giồng Bướm, làng Phong Thạnh, quận
Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu, lấy tên là Thánh thất Ngọc Minh. Rùn ép, đe dọa, Việt
Minh dùng thủ đoạn bắt ông Cao Triều Phát làm bình phong để có danh nghĩa cho họ
lập “Đại Hội Liên Tôn Quốc Doanh”. Trước đó, với sự dàn dựng của Việt Minh, “Cao
Đài Cứu Quốc Họp Nhứt 12 Chi Phái” để lôi kéo tín đồ ủng hộ kháng chiến do họ
lãnh đạọ một giai đoạn khá ly kỳ được dân chúng Bạc Liêu thường nhắc tới là việc
CS dùng thủ đoạn moi tiền ông Cao Triều Phát một cách thô bỉ. Người miền Tây còn
nhớ việc này rành rành như sau (Theo thư nhà văn An Khê Nguyễn Bính Thinh gởi
cho tác giả ngày 2/2/94) :
”…Trong
những năm đầu của cuộc kháng chiến, có một lá thơ của “bác Hồ” gởi Ủy ban Hành
chánh Kháng chiến Nam Bộ, trong đó nhắc tổ chức trao chiếc áo và thư “của Bác”
cho ông Cao Triều Phát. Đó là chiếc áo lụa, do các em thiếu nhi Hà Đông tặng khi
bác Hồ còn ở Hà Nộị Trong “tuần lễ vàng”, Việt Minh lại đem chiếc áo ấy bán đấu
giá, buộc ông Cao Triều Phát phải mua với giá 50 vạn đồng (50,000 đồng) 1 chiếc
áo lụa nhàu nát như miếng giẻ rách.
Từ
đó, ông Cao Triều Phát đã lọt vào quỹ đạo của CS, sẵn sàng làm bù nhìn để Cao
Đài mặc tình sai khiến đóng trò.
Riêng
hệ phái Cao Đài Tây Ninh, cũng bị mua chuộc, dụ dỗ, nhưng không thành công. Tiếp
đó, Việt Minh giở trò vu khống, rồi khủng bố, ám sát nhắm vào các ông Trần Quang
Vinh, Giáo chủ Phạm Công Tắc, Hồng Sơn Đông, Nguyễn Vạn Nhả, nhưng thất
bại.
Ông
Dương Đình Lôi đã kể lại rằng, “Trong 2 năm 1946-1947, Việt Minh đã đưa cả một
trung đoàn về ẩn náu tại vùng Long Sơn, núi Nứa (Cần Giờ), có mục đích đánh phá
đạo Cao Đài. Vùng Rừng Sác có một họ đạo Cao Đài tại Cần Giờ. Trung đoàn 300 của
Việt Minh vẫn thường xuyên đột nhập, gọi là “tảo thanh”, gặp tín đồn Cao Đài là
cứ bắn giết, nhà cửa thì đốt sạch. Mỗi lần như vậy, dân đạo Đao Đài phải chạy
vào đồn bót Tây để được Tây che chở…”
Cũng
theo bức thư của nhà văn An Khê thì :
”…Ở
Củ Chi, thời đó có các Trung đoàn 306, 312 cũng tảo thanh Cao Đài ở vùng Cổ Ống,
Cầu Xe, Sốc Lào, rồi họ bắt theo một số tín hữu, đập đầu, chôn xuống các giếng
trong những nhà chứa mũ cao sụ Mối hận này không bao giờ rửa sạch trong lòng dân
đạo Cao Đài .Vào năm 1947, Việt Minh gởi cán bộ Khu 7 (miền Đông) lên họp với
các lãnh tụ tôn giáo và đảng phái quốc gia, trong đó có giáo chủ Huỳnh Phú Sổ.
Buổi họp kéo dàì từ sáng tới chiều, thì Việt Minh vi phạm cam kết, bất thần xua
quân tấn công Tòa thánh. Súng nổ từ phía ngoài ràọ 3 gã đại diện quân khu (Việt
Minh) run rẩy, nói như muốn khóc :
-
Chúng tôi không chủ trương như thế. Các anh xét lại cho
Ông
Trần Quang Vinh và Nguyễn Văn Thành trấn an họ :
-
Các anh đừng sợ. Các anh đến đây, chúng tôi có bổn phận bảo vệ sinh mạng cho các
anh.
“Khi
ấy Tòa thánh được bố phòng kỹ lưỡng. Tại các ngã đường dẫn vào Tòa thánh, đều có
công sự phòng thủ. Người chỉ huy lực lượng phòng thủ khi ấy là Trịnh Minh Thế.
Việt Minh tấn công vào cửa chính nhằm lúc đổi phiên gác (6g chiều). Lính gác
chưa kịp phản ứng gì. Tức thì một bộ phận khác núp trong mé rừng gần đó xông ra
con đường lớn vừa chạy vừa bắn vào Tòa thánh. Lợi dụng khi ấy chung quanh Tòa
thánh còn nhiều rừng, Việt Minh điều động một số quân đến gần. Nhưng số quân ấy
được lực lượng phòng thủ bên ngoài của Nguyễn Thành Phương chận lại. Toán đặc
công Việt Minh hạ sát toàn lính gác, ồ ạt xung phong qua cổng chính. Mặc dù bị
thương, người chỉ huy rút chốt lựu đạn, quăng về phía Việt Minh. Lựu đạn nổ
tung, báo động cho các vọng gác tiếp viện và sẵn sàng chiến đấụ Mấy tên tiền
phong của Việt Minh ngã gục. Bọn sau chậm lại. Nhờ thế, lính Cao Đài phản công
quyết liệt, đẩy lui địch ra ngoài và đóng cổng sắt lại. 1 Trung đội Việt Minh
bắn giết và đốt nhà dân cách đó 100 m. Ông Trịnh Minh Thế vừa thổi kèn thúc
quân. Nghe tiếng kèn, Việt Minh tưởng có tiếp viện, vội vàng tháo lui, rút vào
rừng “Sáng hôm sau, nhiều phóng viên báo chí từ Saigon lên Tây Ninh, đã chứng
kiến một cảnh tàn sát man rợ hãi hùng. Họ nhìn tận mắt đồng bào vô tội bị Việt
Minh hạ sát : đàn ông, đàn bà, trẻ con đều bị chém, đâm và bắn trong những chòi
lá cháy rụị Có 1 bà mẹ ôm con nhỏ đã bị bắn chết…” (Thư của nhà văn An Khê, đề
ngày 2/2/94).
Một
nhân vật quan trọng của Cao Đài Bến Tre là ông Lê Kim Tỵ. Ông Tỵ từng hoạt động
chống Pháp, bị bắt giam ở Tà Lài mấy năm. Lê Kim Tỵ hoạt động chung với các
ông Dương Văn Giáo, bác sĩ Hồ Vĩnh Ký và vợ là bác sĩ Nguyễn Thị Sương, luật sư
Huỳnh Văn Phương, Lâm Ngọc Đường. Vào tháng 10/1945, những người này đều bị Việt
Minh bắt và hạ sát hoặc trấn nước tại sông Lòng Sông (Mường Mán), Phan
Thiết.
· ”Tình đồng chí”
Tôi
(tác giả Hứa Hoành) có dịp đàm dạo với một vị cao niên, quen nhau từ hồi ở bên
trại tỵ nạn, mới đây gặp lại trong một tiệc cưới . Ông nhận xét về thành phần
dao búa tham gia kháng chiến năm 1945, kể lại những chuyện thật, xin giấu
tên :
Năm
1945, khi Việt Minh cướp chính quyền, kêu gọi toàn dân kháng chiến. Chúng tôi,
dân gian hồ sống ngoài vòng pháp luật từ lâu, nghĩ rằng đây là dịp đoái công
chuộc tội. Hơn nữa, chúng tôi có người còn chút lương tri, muốn ngoi lên ánh
sáng làm người lương thiện và làm người yêu nước trong thời loạn. Đó cũng là tâm
trạng các tướng cướp khét tiếng như Bảy Viễn, Mười Trí, Thomas Phước (tướng cướp
hào hoa nổi tiếng một thời ở Saigon). Đầu tiên, chúng tôi xin gia nhập Tự Vệ của
Lâm ủy Hành chánh. Nhóm này chia làm 2 phe : một phe lo bảo vệ an ninh cá nhân
trong Lâm ủy, còn một nhóm khác nhận mật linh thi hành các vụ giết người “Việt
gian”, “phản động”. Tôi thuộc nhóm thứ hai . Qua mấy tháng nhúng tay vào máu,
chúng tôi, có người tỉnh ngộ và đổi thái độ. Một hôm, Trần Văn Giàu họp chúng
tôi và nói :
-
Cách mạng nào mà không đổ máu ? Chúng ta hãy tiêu diệt bọn “phản động”, “Việt
gian” với bất cứ giá nào.
Những
lời kết tội đó chỉ chung chung, không nói rõ tội trạng một aị Rồi cứ mỗi tối,
chúng tôi lại nhận mật lịnh đi lùng sục, bắt bớ, thủ tiêu nhiều nhân vật tên
tuổi mà Lâm ủy có sẵn tên trong “sổ bìa đen”
Một
người trong nhóm chúng tôi thắc mắc
-
Tại sao độc lập rồi mà còn giết nhiều người tài đức, có uy tín?
Trần
Văn Giàu trả lời :
-
Cách mạng làm gì có đức ? Ai làm cách mạng mà không giết người?
Từ
trong tiềm thức chúng tôi, hận thù dược khơi dậy, nhiều người say máu, muốn trả
thù. Tuy nhiên, cũng có người chùng bước, không nở nhúng tay, nhưng cũng không
dám cải lịnh. Chúng tôi lào vào công việc chém giết và được khuyến khích như
“nhiệm vụ cách mạng”
Mấy
tháng sau chúng tôi tỉnh ngộ. Kẻ còn chút lương tri như bọn tôi, tự động rã ngũ,
về thành để bảo vệ mạng sống 1 cách nhục nhả. Có người “đâm lao thì phải theo
lao”. Lại có người tiếp tục “đánh đu với tinh, đùa giởn với rắn độc”, chỉ trong
1 thời gian ngắn, họ “sanh nghề tử nghiệp”. Đó là trường hợp của Ba Nhỏ, Hoàng
Thọ, Giang Minh Lý và ngay cả Trung tướng Nguyễn Bình. Còn lại những kẻ mù
quáng, tiếp tục vay máu đồng bào, cuối cùng cũng bị “hy sinh”. Họ chết không
phải vì lằn tên mũi đạn của kẻ thù mà chết vì dao găm, mã tấu của “đồng chí” họ
như Tưởng Đàn Bảo, Vũ Đức, Sư Muôn…
Sau
đây là vài trường hợp thương tâm ấy :
Khi
Pháp chiếm lại các công sở trong thành phố Saigon đêm 22 rạng 23/9/45, Ủy ban
Hành chánh đã chạy thụt mạng vô Chợ Đệm mấy hôm trước, bỏ lại bọn Tự Vệ (Tự Vệ
Cuộc, tức công an Việt Minh), Thanh Niên Xung Phong như rắn mất đầu. Võ khí thô
sơ làm sao đương đầu với quân Pháp khí giới tối tân ? Từ chỗ ẩn náu an toàn, Ủy
ban Han`h chánh ra lịnh tàn sát bất cứ người da trắng nào họ gặp. Ba Nhỏ, một
đầu đảng cướp hoàn lương, chỉ huy một toán Tự Vệ thành, được lịnh ấy. Nửa đêm
25/9/45, Ba Nhỏ dẫn 1 đám lâu la, đột nhập cư xá Hérault (Hérault City) dành
riêng cho gia đình Pháp kiều tại Tân Định, Phú Nhuận tàn sát 1 số đàn bà, trẻ
con tại đây. Rồi họ bắt theo độ 50 người làm con tin, nhưng rồi cũng giết nốt.
Tổng số nạn nhân lên tới khoảng 200 người. Nhiều quân lính Pháp, nóng lòng vì
thân nhân bị giết, nên ra đường gặp ai đều bắn bừa bãi để trả thù. Dư luận tức
giận, quay lại kết án Việt Minh là bọn mọi rợ. Nổi sùng, mấy ngày kế tiếp, Ba
Nhỏ, Tô Ký, Kiều Đắc Thắng, Kiều Tấn Lập của Việt Minh được lịnh lùng sục, bắt
bớ, chém giết man rợ. Chỉ trong vòng 1 tháng, có hàng trăm nhân vật tên tuổi,
người quốc gia yêu nước đều bị giết.
Cũng
như lớp CS đàn anh, Ba Nhỏ xuất thân từ băng du côn Bà Chiểu, Cầu Bông, Thị
Nghè; 3 năm cầm đầu dân dao búa, Ba Nhỏ thạo nghề chém giết. Được Lâm ủy Hành
chánh trọng dụng, hắn “làm việc cần mẫn”. Nạn nhân của hắn không một ai sống
sót. Vậy mà khi Pháp xua quân chiếm lại Thủ Đức, Ba Nhỏ theo bộ đội kháng chiến
rút ra trước tới Biên Hòa . Khi Biên Hòa thất thủ, bộ đội Ba Nhỏ rút về Bà Rịa,
Long Thành. Để xoa dịu dư luận bất mãn đối với Việt Minh, Tướng Nguyễn Bình được
lịnh dàn dựng tội trạng để xử tử Ba Nhỏ “làm gương” vì tội “vô kỷ luật”.
Giữa
cảnh dầu sôi lửa bỏng, giặc Pháp thập thò trước cửa, tàu chiến xập xình trên
sông Lòng Tảo hàng ngày, mà Việt Minh ngụy tạo tội trạng cho Ba Nhỏ “đã giết
người đàn mà mang 2 kg thịt tiếp tế vùng tạm chiếm” để tử hình đồng đội. Khi Ba
Nhỏ bị kêu án, Ba Dương (Ba Dương là lãnh tụ Bình Xuyên trước Bảy Viễn) và đồng
đội giang hồ cũ, đều ký tên xin ân xá hoặc giảm án, nhưng Nguyễn Bình được lịnh
phải hành quyết tức khắc. Quá ức vì biết mình bị làm con vật hy sinh, Ba Nhỏ
liều giựt cây súng lục của đội hành quyết định tự sát cho rõ khí phách một tay
anh chị, nhưng toán hành quyết giựt lại và bắn Ba Nhỏ chết liền tại chỗ.
Kiều
Đắc Thắng là một tên du thủ du thực, từ miền Trung lưu lạc vào Nam trước năm
1945. Thắng làm đủ nghề từ phu đồn điền, khuân vác, thợ hớt tóc. Kiều Đắc Thắng
ăn cướp bị bắt giam vào khám ở Vũng Tàu Ở đây, Thắng cùng một bạn đồng tù tên
Năm Bé móc nối với một tên coi ngục để vượt ngục. Lúc đó đúng vào cơ hội Việt
Minh cướp chính quyền, Thắng xin làm Tự Vệ. Từ Tiểu đội trưởng Quốc Gia Tự Vệ
Cuộc (công an Việt Minh), Kiều Đắc Thắng lên lên chức quyền Giám đốc công an các
tỉnh miền Đông chỉ hơn 1 năm, nhờ khả năng bắt cóc và ám sát. Những ai bị Lâm ủy
Hành chánh kết tội “Việt gian, phản động”, Thắng hạ sát không gớm taỵ Nạn nhân
của Thắng dài sọc. Ông Phan Văn Hùm bị Kiều Đắc Thắng ám sát tại quê nhà Bún,
Lái Thiêu, tháng 10/1945. Về sau, thấy Thắng có quyền hành quá lớn, muốn qua mặt
Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Trấn, nên Tướng Nguyễn Bình “gởi Thắng ra gặp bác
Hồ”. Có nguồn tin nói rằng Hồ Chí Minh cho Thắng gặp mặt, phủ dụ mấy câu theo
công thức, rồi đổi tên Thắng là Vũ Tùy Nhàn để khỏi mang tiếng. Tuy nhiên, trên
đường về Nam, Kiều Đắc Thắng chết một cách mờ ám.
Một
nhân vật độc đáo khác cũng xuất thân từ giới giang hồ, đánh giặc rất gan lỳ, đó
là Hoàng Thọ. Hoàng Thọ là người Hải Phòng cũng do lò ba búa đào tạo, lưu lạc vô
Nam từ năm 1939.
Thọ
có thân hình cao lớn, khá điển trai, râu quai nón. Khá hơn những tên trước, Thọ
từng làm thợ máy quấn dây điện. Khi Nhật đảo chánh Pháp (3/1945), Thọ theo Nhật
làm lính hải quân, nên được gọi là “Thọ Mạch lô”. Việt Minh nắm chính quyền mở
ra cho Thọ một con đường mênh mông vì hợp khả năng. Khi Tướng Nguyễn Bình vào
Nam, nghe tiếng Thọ, lại người cùng quê, nên Nguyễn Bình chọn bộ đội Thọ để bảo
vệ cho mình. 1 năm sau, bộ đội của Hoàng Thọ được bổ sung thêm nhiều chiến sĩ,
đánh nhiều trận tiếng tăm lừng lẫy. Địa bàn hoạt động của Thọ là vùng Gò Dầu,
Trãng Bàng, Tây Ninh. Tuân lịnh Việt Minh, Thọ từng gây nhiều tội ác đối với
giáo phái Cao Đài. Những người quen biết với Hoàng Thọ có kể lại rằng, mỗi lần
phục kích, Thọ chọn hướng gần mé sông. Binh sĩ chỉ có tiến chớ khôg có lùi. Khi
Nguyễn Bình chính quy hóa quân đội kháng chiến, bộ đội Hoàng Thọ trở thành Tiểu
đoàn 303. Đó là đơn vị chủ lực của Quân khu 7. Nguyễn Bình gài một tên CS, tên
Kính, vào làm chính trị viên thì Tiểu đoàn 303 bắt đầu chia rẽ nội bộ và trở nên
suy yếu. Có lần Hoàng Thọ bắt gặp một số bộ đội sinh hoạt riêng rẽ, bí mật. Khi
Thọ điểm danh, thì vắng mặt. Lúc đó, tên chính trị viên Kính cố thuyết phục, rùn
ép, dụ dỗ Thọ vô đảng CS. Bất mãn, Thọ bỏ đi, rồi cạo đầu để phản đối. Lúc trở
về, Thọ thấy vật dụng cá nhân đều bị lục soát, anh ta bực tức không dằn
được :
-
DM. Hoàng Thọ này đi kháng chiến vì dân vì nước, đâu có ngờ ngày nay có đảng này
đảng nọ. Đem mà bắn cha nó cái đảng CS cho rồi!
Sau
đó, Thọ bị kiểm điểm, phê bình và thế là môt bản án tử hình bí mật đã định sẵn.
Tháng sau, Tướng Nguyễn Bình “giới thiệu” Hoàng Thọ ra Bắc “gặp bác Hồ”. Biết rõ
âm mưu của Việt Minh định giết mình, Hoàng Thọ đi vài chặng, rồi đổi ý quay về
Mỹ An mở quán lá bên bờ kinh Nguyễn Văn Tiếp trong Đồng Tháp Mười làm sinh kế.
Hoàng Thọ có tiền, tiếp đãi bạn cũ có dịp công tác đi ngang qua đó rất hậu chẳng
khác gì Mạnh thường quân.
Đầu
năm 1950, văn phòng Trung tướng Nguyễn Bình dời về Cá Lóc, quận Long Mỹ. Bị Tây
phát giác, họ chuyển đến Ông Dèo, ấp Cầu Đúc, quận Gò Quao, tỉnh Rạch Giá. Trong
một đêm tối trời, Hoàng Thọ bị bắt, đem đi hành quyết tại một địa điểm gân Cạnh
Đền. Bọn sát nhân đập đầu Hoàng Thọ như đập đầu con cá lóc. Trước khi chết, Thọ
rống như bò và chửi rủa Việt Minh thậm tệ.
Cùng
thời gian đó, ông Giang Minh Lý bị giết rất dã man. Lý con nhà đại điền chủ bỏ
theo kháng chiến, lập nhiều công trạng, làm chính trị viên một đại đội đóng ở
Cần Thợ Lý bị rùn ép, đe dọa phải vào đảng CS và phục tùng mệnh lệnh của họ. Lý
từ chối nên bị nghi ngờ, theo dõị Lý bất mãn ra mặt. Có lần Lý tuột quần, chỉ
vào con c. và điểm mặt Hoàng Dư Khương, Chính ủy Khu 9, nói :
-
Tao sợ mày cái con c. tao nè!
Mấy
hôm sau, Lý bị bắt đem đi hành quyết tại Cạnh Đền. CS căng 2 tay ông ra, rồi
dùng dao găm đâm túi bụi vào mắt, vào tim..
Sau
đây là một vụ hành quyết tập thể các “đồng chí” của mình (Việt Minh) mà tác giả
Dương Đình Lôi có thấy hoặc nghe kể lại trực tiếp (qua 1 bức thơ ông Dương Đình
Lôi gởi riêng cho tác giả:
…Tất
cả độ 20 người thuộc bộ chỉ huy, tham mưu và hậu cần, chính trị của Tiểu đoàn
300 Dương Văn Dương, có cả Trương Văn Phụng và anh Tám Sơn đều bị trói thúc ké,
đem xuống bờ biển Đông Hòa, rồi chặt đầu hết. Trong số nạn nhân có Bảy Nghiệp,
nguyên Chi đội trưởng Chi đội 21 từ nhóm Bình Xuyên qua, phụ trách đảng vụ của
Trung đoàn và chị Hai Sương được “hưởng ân huệ” khi xử tử. Đó là dùng súng bắn
vào đầu thay vì bị chăt đầu.
Về
cái chết của chị Hai Sương, ông Dương Đình Lôi không chứng kiến, nhưng được nghe
chính người hành quyết kể lại :
Tôi
nghe anh Năm Triệu, Đại đội trưởng chỉ huy cuộc hành quyết đó về vă phòng trung
ương báo cáo lại. Năm Triệu gốc lính Nhật, to lớn con, mang gươm dài chấm đất.
Năm Triệu kể :
”Tao
thấy con Sương rụng rời tay chân. Tới phiên nó, nó xin đi đái. Tới lúc nó đứng
dậy sau bụi cây mưa. Nó lột trần truồng dưới ánh trăng lờ mờ, làm tao trân trối
nhìn nó chậm rãi đi trước miệng hố. Tao biết tội nó chỉ là liên lạc đưa thơ về
Saigon mà sao họ cũng giết đành đoạn ? Khi tới gần tao, nó nói :
-
Anh Năm ! Em muốn hiến cho anh rồi em chết
“Tao
bàng hoàng định tha cho con nhỏ. Nhưng thằng mắc dịch Bảy Mầu đi tới (Bảy Mầu
cũng là Đại đội trưởng, chồng chị Dưỡng, rễ của Ba Dương, bị Tướng Nguyễn Bình
sai Từ Văn Ri ám sát chết ở Bến Tre). Thằng Mầu nó bảo :
-Bộ
hỏng mạnh dạn xuống gươm hả ? Để tao tặng cho em viên đạn.
“Thế
là kết liễu một đời hồng nhan bạc phận. Chị Sương là một người đẹp nhất của
Trung đoàn, con nhà giàu, học sinh ở Saigon, bỏ theo kháng chiến và rước lấy cái
chết thê thảm.
Những
người bị chặt đầu, chôn, hoặc thả trôi sông Lòng Tảo hôm ấy tôi được biết gồm
có:
-
Hai Điều, Trưởng ban quản trị, bị bắt ở An Thành
-
Tám Son, Trưởng văn phòng Trung đoàn
-
Bảy Nghiệp, Tiểu đoàn trưởng, Trưởng ban đảng vụ
-
Năm Son, Trưởng ban quân nhu
-
Bác sĩ Năm Ngà, Trưởng bịnh xá Trung đoàn
-
Chị Sương, một thiếu nữ xinh đẹp, thuộc ban quân báo Trung đoàn
-
Chín Lá, Trưởng đài vô tuyến điện
· Sau đây là chuyện của Sư
Muôn
Sư
Muôn là một nhà tu mang nhiều tai tiếng xấu, báo chi phanh phui những hành động
lem nhem với phụ nữ. Lý lịch sư Muôn cũng ít người biết, nhưng nhắc tới sư Muôn,
những người lớn tuổi ở miền Tây không ai không nghe tiếng. Tôi (Hứa Hoành) may
mắn được ông Xuân Tước và 1 vị cao niên khác chỉ dẫn nhiều chi tiết.
Hồi
những năm từ 1936-1939, sư Muôn có chùa ở quận Giồng Riềng, tỉnh Rạch Giá. Sát
bên chùa có một cái am nhỏ, nơi đây những phụ nữ, những bà hiếm muộn muốn cầu
tự, thường tìm đến sư Muôn để nhờ làm phép và nhiều người mãn nguyện. Nhờ vậy
tiếng ông đồn rất xa.
Sư
Muôn tên thật là Nguyễn Kim Muôn, người ở Gia Định, trước làm công chức Sở hỏa
xa. Lúc đó, ông có mướn căn phố tại đường Hamelin (Hồ Văn Ngà sau này). Ông xuất
tiền và lạc quyên thêm để cất ngôi chùa Long Vân Tự tại đường Hàng Xanh, Thị
Nghè. Bây giờ Long Vân Tự vẫn còn. Trong khi tu, sư Muôn có nhiều chuyện bất
chánh với phụ nữ khiến dân chúng căm phẫn. Ông bỏ chùa xuống Giồng Riềng, Rạch
Giá, tiếp tục lập chùa, lừa gạt phụ nữ hiếm muộn. Báo chí Saigon đã tố cáo ông
thậm tệ.
Đầu
năm 1946, Pháp chiếm trọn các tỉnh miền Nam. Hết đất dụng võ, nhóm CS đầu não
của Khu 9 gồm Tỉnh ủy Nghiêm Cai Cơ, Bí thư Tỉnh ủy Dương Quang Đông (tức Năm
Đông), Phan Trọng Tuệ, Lâm Ngọc Minh phải bôn đào ra Phú Quốc. Sẵn thấy chùa sư
Muôn có cơm gạo do bá tánh dâng cúng, nên bọn này ghé ăn dầm nằm dề tại chùa để
ăn chực. Để lợi dụng sư Muôn, họ bèn phong cho ông làm “Ủy viên Xã hội” bằng
miệng. Năm 1948, CS bao vây chùa bắt sư Muôn đem giết ven mé rừng, giữa Dương
Đông và Hàm Ninh.
· Phong trào “Thổ dậy” ở miền Nam vào
năm 1945
Miền
Nam là đất cũ của Chân Lạp, tức lãnh thổ Miên (sau khi Chân Lạp bị suy tàn). Dân
Nam Kỳ gọi người Miên là “Thổ”. “Thổ dậy” là phong trào những người Miên trả thù
(cáp Duồng) giết người Việt. Trong thời Pháp thuộc, người Miên, người Việt sống
đề huề, thuận hòa với nhau trong gần 1 thế kỷ. Bình thường, bản tính người Miên
rất hiền lành. Họ ăn uống cực khổ (thường ăn mắm) làm việc nặng nhọc như chèo
ghe, vác lúạ.. Người Miên theo Phật giáo Tiểu thừạ Tuy nhiên, bị khích động, họ
thịnh nộ, giết người dã man.
Sau
khi cướp chính quyền ở Cà Mau (lúc đó là 1 quận), Ủy ban Hành chánh quận này đã
giết hàng loạt thường dân và các nhà sư Miên một cách dã man. Thừa gió bẻ măng,
khi Pháp ruồng bố tới, Thổ nhứt tề nổi lên theo Pháp để trả thù người Việt, gặp
ai giết nấy. Võ khí của họ là chiếc phảng phát cỏ, kèo ngay, xử dụng như mã tấụ
Những ai từng sống ở Hậu Giang vào các năm ấy, chắc không khỏi hãi hùng vì những
tin “Thổ dậy”. Thảm cảnh đó do một nhóm Việt Minh CS khơi nguồn, nhưng nhiều
người dân vô tội sau đó đã trở thành nạn nhân.
Chứng
kiến cuộc hành quyết dã man , ông Văn Nguyên Dưỡng, trong hồi ký “Tết Chạy Giặc
Sau Mùa Thu Nhiễu Nhương”, đã thuật lại cuộc giết các thường dân và sư sải Miên
ở Cà Mau năm 1945 như sau :
”…rồi
không lâu, sau ngày “Mừng độc lập”, cuộc tao loạn bắt đầu. Ngoài danh từ mới
“Việt Minh” được biết vào ngày đó, tôi còn biết thêm 1 danh từ nữa là “Việt
gian”. Dân chúng, ai cũng sợ danh từ ấy. Ai cũng có thể bị kết tội là Việt gian
với những chứng cớ mơ hồ, hay những việc làm trong dĩ vãng, rồi đem ra bắn hoặc
cho “mò tôm”. Người đầu tiên bị xử bắn dưới dạ Cầu Quay bên kia sông là cậu Bảy
Mầu, “ông Cò Cà Mau”. Mắt tôi mở rộng thêm khi biết rằng “có độc lập rồi” mà
Việt Minh vẫn đem người ra xử bắn hàng loạt. Nhứt là các sư sãi ngươi Miên bị
lôi từ trong chùa Miên ra, hoặc bị bắt ở đâu đó trong quận . Cách xử tử quá dã
man : Họ trói tay hay bịt mắt bắn hoặc chặt đầu. Cho rằng các sư Miên có “cà
tha” (bùa), có ngải, súng đạn không lủng, chém không đứt, Việt Minh nghĩ ra các
xử tử bằng tầm vông vạt nhọn, đâm vào hậu môn rồi thả trôi sông. Xử tập thể
trước mắt công chúng, trông thật khủng khiếp. Cầu tàu dưới bến, nơi họp lưu của
sông Cà May và kinh xáng Đội Cường, thường là nơi diễn ra cuộc hành quyết đó.
Mỗi lần như vậy, dân chúng tò mò kéo nhau đi coi rất đông. Hàng loạt sư sãi Miên
bị cột chặt vào 3 đòn tre cứng, dài, mỗi người cách nhau 1 bước, thành một hàng
ngang, xoay mặt ra phía sông. Quần bị lột bỏ. Đòn tre thứ nhứt đặt trên cổ, sau
ót hàng người bị xử tử. Đòn tre thứ hai đặt ngang thắt lưng. 2 tay mỗi nạn nhân
bị trói thúc ké, bẻ quặc ra sau lưng, buộc chặt vào đòn. Đòn tre thứ ba đặt
ngang mắt cá, phía trước hàng chân dạng ra của họ. Một đoạn dây buộc vào cổ mỗi
người dính vào đòn tre thứ nhứt, kéo thẳng xuống buộc 2 chân họ vào đòn tre thứ
bạ 6 du kích khoẻ mạnh giữ cứng 6 đầu của 3 đòn tre, kèm cho hàng người tù tội
đứng ở thế cúi người xuống, chổng mông hướng vào mép trong cầu tàu. Ở mép trong
cầu tàu, đã có sẵn 1 đội du kích bằng với số tử tội, đứng sắp hàng ngang, tay
giữ tầm vong vạt nhọn đầu, dựng ngọn lên trời, chờ đợi.
Đến giờ xử, có lịnh hành quyết do một người chỉ huy phất lên. Những tên du kích này hạ tầm vông ngang thắt lưng, chỉa mủi nhọn ra trước mặt, cùng 1 lượt chạy nhanh ra mép cầu, dùng hết sức mạnh, đâm thẳng mũi nhọn vào hậu môn của mỗi tử tội, đẩy cả hàng tù tội này xuống sông và buông luôn cả cây tầm vông… Cách xử như vậy là xong. Bọn du kích Việt Minh bình thản kéo nhau ra về mang đầy máu me của những người bị xử phọt ra. Chúng bỏ cho những người đi coi mặc tình tràn ra cầu tàu nhìn xuống nước, xem những người này sống chết ra sao. Dĩ nhiên không 1 ai sống sót. Nếu họ không chết vì vết đâm thấu ruột gan, thì cũng chết vì ngộp nước không lâu sau đó. Những cán tầm vông sẽ chổng lên trời hoặc ngã nghiêng xiêng xọ, rồi những đàn diều, quạ, kên kên lượn vòng khu vực đó. Vài con đậu trên cán tầm vông. Năm bảy con chúi xuống rỉa thịt xác chết. Cả 1 vùng nồng nặc hôi thúi, gieo sự kinh hoàng tột đỉnh cho mọi người.
Đến giờ xử, có lịnh hành quyết do một người chỉ huy phất lên. Những tên du kích này hạ tầm vông ngang thắt lưng, chỉa mủi nhọn ra trước mặt, cùng 1 lượt chạy nhanh ra mép cầu, dùng hết sức mạnh, đâm thẳng mũi nhọn vào hậu môn của mỗi tử tội, đẩy cả hàng tù tội này xuống sông và buông luôn cả cây tầm vông… Cách xử như vậy là xong. Bọn du kích Việt Minh bình thản kéo nhau ra về mang đầy máu me của những người bị xử phọt ra. Chúng bỏ cho những người đi coi mặc tình tràn ra cầu tàu nhìn xuống nước, xem những người này sống chết ra sao. Dĩ nhiên không 1 ai sống sót. Nếu họ không chết vì vết đâm thấu ruột gan, thì cũng chết vì ngộp nước không lâu sau đó. Những cán tầm vông sẽ chổng lên trời hoặc ngã nghiêng xiêng xọ, rồi những đàn diều, quạ, kên kên lượn vòng khu vực đó. Vài con đậu trên cán tầm vông. Năm bảy con chúi xuống rỉa thịt xác chết. Cả 1 vùng nồng nặc hôi thúi, gieo sự kinh hoàng tột đỉnh cho mọi người.
Người
dân lành trong quận đã bắt đầu câm nín. Cuộc sống của họ bị đe dọa và bị ám ảnh
bởi những cuôc hành quyết man rợ…”.
__._,_.___
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen