Dân ơi ta bảo dân
này
Dân ra ngoài ruộng, Dân cày mình
dân.
Cấy cày bổn phận con dân,
Quốc hội bận họp bán dần nước
non.
Lạy thượng đế bao giờ con hết
khổ?
Tổ cha mày còn khổ mãi nghe
không
Ai bảo quyết chí chung lòng
Đi theo cộng sản vót chông diệt
thù?
Bây giờ mới biết rằng ngu
Tỉnh ra thì cũng đã gù cả
lưng
Vũ trường là chốn ăn
chơi,
Chí Hoà là chỗ nghỉ ngơi giang
hồ.
Lăng kia là của giặc Hồ
Cho nên dân Việt cơ đồ nát
tan
Trăm năm Kìêu vẫn là
Kìều
Muốn đậu tốt nghiệp phải liều...
copy
Lãnh đạo cũng thế còn gì
Học hành ôn luyện làm gì cực
thân?
Thật thà nên chẳng có phần
U mê dốt nát nên thần, nên
quan
Có tiền nuôi chó, nuôi
mèo
Đừng nuôi cán bộ nó trèo đầu
dân
Ăn no nó lại làm càn
Vàng bạc, châu báu tranh phần chia
nhau
Bộ đội buông súng thì
tha
Công an thì phải chặt ba khúc
liền
Chúng là công cụ kiếm tiền
Làm cho xã hội đảo điên, quay
cuồng
Ngày xưa chống Mỹ chống
Tây
Ngày nay chống gậy ăn mày áo
cơm!
Ngày xưa mỹ thối, đảng thơm
Ngày nay cộng sản thối om cõi
bờ
Tuổi thơ cháu giỏi đánh
hôi
Đánh cho Mỹ, "Ngụy", đầu rơi, máu
trào
Lớn lên độc lập tràn vào
“Cháu ngoan” cả nước ào ào...ăn
xin
Hỡi anh bộ đội, thương
binh
Chắc anh đã thấy dân mình ra
sao
Công lao xương máu năm nào
Bây giờ lãnh đạo mang trao cho
Tàu
Nam Quan, Bản Giốc còn
đâu
Hoàng Sa biển rộng cúi đầu cống
dâng
Đời anh sống chết bao lần
Vì lòng yêu nước góp phần dựng
xây
Bây giờ chính đảng một
bầy
Cướp đêm rồi lại cướp ngày không
tha
Trong tay còn khẩu AK
Mong anh diệt lũ gian tà lưu
manh*...
Nhà ai giầu bằng nhà cán
bộ?
Hộ nào sang bằng hộ đảng
viên?
Dân tình thất bát đảo điên
Công an mặc sức vung tiền chơi
ngông
Đảng cử là dân không cử, cứ
bầu
Đảng vì dân là đảng cướp của
dân
Đảng yêu dân là dân mất mạng
Đảng yêu nước, đảng bán nước cho
Tàu.
Ngày xưa đại tướng anh
hùng
Ngày nay đại tướng ngập ngừng phân
vân
Cầm quân rồi lại cầm quần
Đẻ vô kế hoạch, anh Văn...mất
nhờ
Anh Văn – tức Võ Nguyên
Giáp
Việt Nam
dân chủ cộng hòa
Đồ đạc bán trước, cửa nhà bán
sau
Ăn cơm chỉ có mắm, rau
Chớ ăn thịt cá mà đau dạ
dày
Việt Minh, Việt Cộng, Việt
Kiều,
Trong ba Việt ấy, Đảng yêu Việt
nào?
Việt Minh thì tuổi đã cao!
Việt Cộng ốm yếu, xanh xao gầy
còm!
Việt Kiều thì vẫn còn son.
Đảng yêu, đảng quý như con trong
nhà!
Chỉ cần một ít Đô La,
Việt Gian phản quốc hóa ra Việt
Kiều!
Da em thơm như mùi cơm mậu
dịch
Má em hồng như vỏ củ khoai
lang
Mặt em trắng như sắn vừa lột
vỏ
Tình em đượm như rau muống chấm
tương
Tôi đây chiến đấu ở vùng
tề
Trái bom của Mỹ nổ gần kề
Cắt phăng cái cần... tăng dân
số
Xin đảng cho tôi được phép
về
Học tư tưởng bác không học
được
Theo gương người càng khó khăn
hơn
Một con còn khó làm sao có
Cả triệu cháu con khắp cõi
bờ?**
Nếu hết sữa, ấy thì cho
bú
Hết vú này đến vú bên kia
Sữa nhiều ta phải phân chia
Hôm nay vú nọ, hôm kia vú
này
Làm ngày
nắng,
Cố gắng ngày mưa,
Không chừa chủ nhật
Sự thật...nghĩa
trang
Lời nói đâu phải đùa
chơi
Lựa lời mà nói cho lòi tiền
ra
Đời ông cho chí đời cha
Mỗi lời đảng nói dân ta...xuống
mồ
Ngày xưa dân giúp
đảng
Quân- dân như cá, nước
Nay phản bội ước mơ
Quân-dân thành cá,
thớt
Mất đất là tại...Trung
Hoa
Nghèo nàn là bởi mù lòa đảng
ta
Con ơi nhớ lấy lời cha
Chớ nghe lời đảng mà ra...ăn
mày
Ăn mày là ai, ăn mày là
ta
Bị đảng cướp đất hóa ra ăn
mày
Đeo còng số tám trên tay
Dân oan cả nước ngồi đầy
nhà...pha
Ngày xưa đảng nói đảng
hay
Nhờ đảng dân ngửa hai tay xin
tiền
Nước ngoài trông thấy thật
phiền
Phục hồi nhân phẩm nhận liền... đỡ
cơm
Tiến về Sài Gòn quan chiếm nhà mặt
tiền
Tiến về Sài Gòn quan chiếm nhà thật
to
Nước lộn tùng phèo, trộm cướp được thì
dùng
Tiến về Sài Gòn, giải phóng đời
quan
Hoan hô công an đảng
ta
Đánh giặc thì dốt, đánh ta rõ
tài
Xe kia quay cổ chạy dài
Công an quăng lưới chụp hoài...không
tha
Hình ảnh đẹp
nhất từ khi thành lập ngành (19-8-1946)
36 năm đời dân có đảng
cũng là 36 năm đời dân... đáng cỏ. Dân chúng đối mặt với chính quyền, và tìm mọi
cách xả nỗi bất bình của họ bằng cách sáng tạo ra nhiều chuyện tiếu lâm chính
trị, ca dao, hò vè. Trong cả nước không đâu có nhiều chuyện tiếu lâm, thơ ca
bằng Hà Nội, Sài Gòn vì đó là thủ đô hành chính (Hà Nội) và trung tâm kinh tế
(Sài Gòn), mọi chuyện tồi tệ xấu xa của cung đình tràn ngập các quán cóc vỉa hè
hoặc quán cà phê mỗi ngày. Tưởng như vô hại mà hại vô kể. Vì nó sẽ thành dư luận
mở rộng mãi ra, bao trùm mọi việc, mọi người, trở thành mặt bằng mới để đề ra
các tiêu chuẩn sống cho một thời, một đời, vừa thấm đẫm tính cá nhân vừa thấm
đẫm tính thời đại để ngấm ngầm trả thù, sả stress, để bù lại những giá trị bị
đảng cộng sản vô cớ tước đoạt.
Thừa chữ làm chi chẳng viết
chơi
Lang thang góp nhặt một đôi
lời
Mua vui cũng được dăm ba tối
Để lại cho đời những phút
giây...
Sacramento 13/12/2011TKTT
*Phần 9 là tác giả sửa
thơ của Nguyễn Quốc Việt Hùng, còn lại là của một số tác giả khuyết danh hoặc
của chính tác giả.
Thơ Tố Hữu ca
ngợi Hồ Chí Minh: người không con mà có những triệu con
Công nhân, vợ ốm con còi
Lãnh đạo nhà gác, xe hơi bộn
bềBao giờ cho hết trò
hề?
Dân ta bớt khổ não nề, u
mê
Nguyễn Đức
Quang, con Nguyễn Đức Nhanh, ăn chơi sa đọa bằng mồ hôi và xương máu người
dân
Cá tươi xem lấy đôi
mang
Người khôn xem lấy đôi hàng tóc
mai
Đảng ta một lũ độc tài
Ghế cao ngồi tót đuổi hoài không
đi
Cánh hồng bay bổng trời
thu
Thương con chim gáy cúc cu trong
lồng
Dân ta một cổ bao tròng
Đảng còn đem nhốt vào lồng...Trung
Hoa
...đảng còn đem nhốt vào
lồng... Trung hoa
Mấy đời bánh đúc có
xương
Suốt đời cộng sản chẳng thương dân
mình
Đất ngon nhà tốt chộp rình
Để cho khắp nước dân tình kêu
la
...Suốt đời cộng sản chẳng
thương dân mình...
Cau già dao bén thì
ngon
Người già trang điểm phấn son cũng
già
Đảng kia một đảng gian tà
Mưu ranh quỷ quyệt vẫn là Cộng
nô
...điểm trang cho lắm... cũng
là cộng nô...
Lao động là vinh
quang
Lang thang là chết đói
Hay nói thì ở tù!
Lù khù đi kinh tế
(mới)!
Lao động là vinh quang... tất
cả còn lại chỉ có chết!
Con cóc nằm góc bờ
ao
Lăm le lại muốn đớp sao trên
trời
Đảng ta nói dối cả đời
Đỉnh cao trí tuệ rạng ngời thế
gian!?
Để dân chết đói thả giàn
Vợ chồng con cái bầu đoàn tha
hương
Đảng cả đời nói dối... dân chết đói
khổ ải...
kéo nhau tha
hương..
Việt Nam hạng nhứt ai
ơi
Nhứt cư - như cứt bạn thời biết
chưa?
Ăn cướp, ăn cắp, dối lừa
Quan to, chức lớn, mứa thừa, loạn
luân...
Chỉ thương cái gọi là dân
Quanh năm suốt tháng làm thân phận
rùa
...thương cái gọi là dân...
làm thân phận rùa..
Công cha như rác như
phân
Nghĩa mẹ như nước trong quần chảy
ra
Giơ tay tố cáo mẹ, cha:
“Mày là địa chủ... tao xa lìa
mày”
...Giơ tay tố cáo mẹ cha...
là địa chủ!
Đau khổ chi bằng mất Tự
do
Nói lời chân thật đảng không
cho
Bởi đảng quyết tâm chôn chân
lý
Cho nên cả nước tối mò
mò
Đảng quyết tâm chôn chân
lý... nên cả nước tối mò...
Đảng giàu nhân dân
khó
Đảng có nhân dân không
Trí thức lẫn công nông
Đều bị đảng bóc
lột
...tất cả đều bị đảng bốc
lột...
Trình độ có
hạn
Khốn nạn có thừa
Đảng càng ngồi lâu
Dân càng lâm
nạn
...vì công an cộng sản không
cần biết đến dân... chỉ biết có đảng...
Như nước... dại Việt Nam từ trước
Vốn tôn sùng chúng nó qúa lâu
Bây giờ chúng lại theo Tàu
Buôn dân, bán nước, theo hầu Trung
Hoa
...bây giờ chúng theo hầu
Trung Hoa...
Sè sè tiếng nước bên
đàng
Rầu rầu ngọn cỏ, nửa vàng nửa
xanh
Ai về nhắn chú, nhắn anh
Làm ngay toilet xóa nhanh cảnh
này
Đã lâu không làm bài thơ
nào
Nay lại thử làm xem ra sao
Lục khắp giấy tờ vẫn chửa
thấy
Bỗng nghe thằng Thắng đái bên
ao*
Chó nhảy bàn độc, khỉ ngồi đầu
dân
Mong sao trời đất xoay vần
Công, Nông, Trí thức bần hàn vùng
lên
Đạp cộng sản xuống đất đen
Đuổi quân Tàu khựa chạy liền không
tha
mong có ngày dân đạp cộng
sản... đuổi Tàu khựa...
Cây cao bóng mát không
ngồi
Chui vào hang tối trách trời tối
đen
Nhân tình thế thái đảo điên
Bà con cả nước vùng lên phen
này
...cả nước vùng lên phen
này.
Cóc chết bao thuở nhái
sầu
Ểnh ương lớn tiếng, nhái bầu dựa
hơi
Đảng chết dân cả nước cười
Cút đi cùng với lũ người Trung
Hoa
BaBui: ...Vận nước đã đến
rồi!
Tôi muốn đúc thơ tôi thành
đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn!
Vung liềm búa xuống đầu dân
Hỡi ôi Tổ Quốc nghèo nàn tối
tăm
Cậu kia vác sách đi
đâu
Chớ nghe cộng sản sang Tàu, sang
Nga
Hãy nhìn gương của mẹ cha
Theo đảng phục vụ hóa ra... cơ
hàn
Bây giờ phải biết lo thân
Tỵ nạn giáo dục còn băn khoăn
gì?
...nhìn gương... theo đảng
hóa ra cơ hàn...
Cộng sản nay đã ốm
o
Bà con cả nước reo hò, hát ca
Quan to bỏ đất, vứt nhà
Mò sang Trung Cộng để mà...an
cư
Quan to mò sang Trung cộng...
để mà an cư.
Đảng là gì bà con
ơi?
Là quân bán nước cùng ngồi trung
ương
Chúng là một lũ quỷ vương
Moi gan, hút máu, đục xương dân
lành...
...quân bán nước cùng ngồi
trung ương...
Danh nhân nước ngoài
nhận định: “Muốn hiểu bản chất một chế độ chỉ cần xem xét tinh thần của người
dân sống trong chế độ ấy”. Gần 82 năm cộng sản cầm quyền thì bức tranh xã hội
chủ nghĩa và tâm trạng người dân trong lòng đảng bác thể hiện rõ nét như thế này
đây. “Giang sơn chan chứa đôi hàng lệ”, bài viết nhỏ này của tác giả chỉ là một
giọt nước mắt trong cả bể khổ mênh mông của 87 triệu người dân ba miền Trung,
Nam, Bắc. Rất mong được bạn đọc, bạn viết bổ xung, chỉ giáo
thêm.
Sacramento 1-1-2012
Khai bút đầu
xuânTrần
Khải Thanh Thủy
Ca Dao XHCN
Việt nam có một ông già
Râu dài, tóc bạc tên là Chí Minh
Ông hay uống rượu một mình
Khi buồn lại rủ Trường Chinh uống cùng
Say sưa ông nói lung tung:
Việt Nam mình sẽ sánh cùng năm châu
Này ông, chuyện ấy còn lâu!!!
Câu ca dao nêu trên có
lẽ được sáng tác và lưu hành tại miền Bắc từ ngày ông Hồ Chí Minh còn có thể
ngồi lai rai uống rượu và ăn nói lung tung, tức là trước cái ngày ông được nhân
dân ca tụng bằng hai câu ca dao khác cũng chẳng kém mùi “phản động”: “bác Hồ ta
thật vẻ vang, đang từ khỏe mạnh chuyển sang… từ trần”.
Phải công nhận tác giả
câu ca dao tả bác uống rượu, và cả những người góp phần khẩu truyền câu ca dao,
quả là trông xa thấy rộng. Ngay từ bốn, năm thập niên trước, khi đảng cộng sản
Việt Nam nói riêng và cộng sản quốc tế nói chung đang làm mưa làm gió trên quả
địa cầu, những người dân ấy đã đủ sáng suốt để vỗ vai bác, dù là vỗ vai bằng chữ
nghĩa, mà bảo bác rằng “Này ông, chuyện ấy còn lâu!”.
Quả thật, cho đến hôm
nay, dưới sự lãnh đạo của cộng sản, chuyện Việt Nam có thể sánh vai cùng cộng
đồng nhân loại vẫn còn lâu, lâu lắm. Trong suốt hơn nửa thế kỷ kể từ ngày cai
trị miền Bắc và ba thập niên từ lúc cưỡng chiếm miền Nam, cộng sản Việt Nam đã
gieo rắc muôn vàn tang thương cho dân tộc. Biết bao tiếng kêu đau đớn và phẫn
uất của nhân dân đã vang lên trong suốt chiều dài lịch sử này. Trong số ấy,
nhiều tiếng kêu đã cô đọng thành những câu ca dao thật độc
đáo.
Tự ngàn xưa, cổ nhân đã
nhận định là muốn tìm hiểu bản chất một chế độ thì chỉ cần xét tinh thần của
người dân sống trong chế độ. Tuy nhiên, làm thế nào để biết được tinh thần người
dân? Để trả lời câu hỏi, các cụ dậy rằng “dễ lắm, tinh thần người dân luôn luôn
được phản ảnh qua thơ và nhạc lưu truyền trong dân gian”. Cũng vì vậy mà cụ
Khổng đã bảo “thanh âm chí đạo dữ chính thông hỹ”, tức là “đạo thanh âm tương
thông với chính trị”, và cụ nói rõ rằng “thơ nhạc gốc ở tình cảm, mà tình cảm
gốc ở chính trị”. Từ quan niệm này, cụ đã san định Kinh Thi, gồm hơn ba trăm bài
thơ mà đa số là những bài thơ “quốc phong”, tức thơ của dân gian, về đời vua Văn
nhà Chu (1186 đến 1135 trước Tây Lịch) để mô tả xu hướng chính trị và luân lý
của xã hội thời bấy giờ.
Hôm nay, 30 năm sau ngày
miền Nam đổi chủ, bắt chước cổ nhân, người viết xin dùng những câu ca dao được
lưu truyền tại Việt Nam kể từ biến cố tháng tư năm 75 để minh họa bức tranh xã
hội chủ nghĩa và tâm trạng người dân trong suốt 30 năm qua. Trong số những câu
ca dao này, có những câu ta thán đầy thê lương ảo não, có những câu trào phúng
“bề ngoài cười nụ, bề trong khóc thầm”, có những câu châm biếm chua cay đôi khi
trở thành tục tĩu, và có cả những tiếng mắng chửi vô cùng hằn học. Có thể nói
tất cả những câu ca dao ấy là một hình thức phản kháng, một thứ vũ khí đấu tranh
của người dân thấp cổ bé miệng trước sự áp bức của bạo quyền.
Cũng xin nói thêm, người
viết rời quê hương trong ngày cuối cùng của cuộc chiến và cho đến hôm nay, sau
30 năm tỵ nạn nơi đất khách, vẫn chưa về thăm lại quê nhà để đi “thực tế” (mượn
tạm ngôn từ của cộng sản) một chuyến. Vì vậy, những câu ca dao trích dẫn trong
bài là những câu hoặc đã sưu tầm được trên sách báo và trên mạng lưới điện toán,
hoặc do những người đã từng sống nhiều năm với cộng sản kể lại khi đến định cư
tại xứ người, hoặc do các thân hữu về thăm Việt Nam mang sang làm “quà lưu
niệm”.
Đến hôm nay, có lẽ những
người di tản đợt đầu tiên từ gần 30 năm trước vẫn còn nhớ đôi câu thơ phát xuất
tại miền Nam sau ngày Sài Gòn đổi chủ. Vâng, chúng ta đã nghe nhắc đến đôi câu
ấy trong những năm tháng đầu xa quê hương. Nghe mà dạ bùi ngùi. Nghe mà lòng
chua xót:
Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do
Câu thơ đánh dấu sư
kiện, tại Sài Gòn, nhà cầm quyền cộng sản đổi tên đường Công Lý thành Nam Kỳ
Khởi Nghĩa và đường Tự Do thành Đồng Khởi. Ở một ý nghĩa khác, công lý đã chết
tức tưởi và tự do thì đã vội vã ra đi.
Và đôi câu khác cũng
được phổ biến khá rộng rãi trên mọi miền đất nước, từ sông Bến Hải đến tận mũi
Cà Mau:
Dép râu dẫm nát đời son trẻ
Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai
Đau đớn
thay:
Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
Việt Cộng về thành làm tội dân ta
Ba mươi năm bị làm tội
làm tình, quãng thời gian dài gấp đôi đoạn đường luân lạc của Thúy Kiều thuở
trước. Từ ngày ấy đến hôm nay, bao nhiêu hàng nước mắt đã lăn dài trên gò má
người dân cùng khổ.
Đổi tiền và
học tập cải tạo
Một thời gian ngắn sau
khi tống giam hàng trăm ngàn quân nhân công chức chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào
cái gọi là trại cải tạo, nhà cầm quyền đã ban lệnh đổi tiền để tước đoạt tài sản
người dân miền Nam. Có lẽ những người dân miền Nam từng sống dưới chế độ cộng
sản còn nhớ là chỉ trong vòng 10 năm kể từ ngày chiếm miền Nam, cộng sản đã ba
lần đổi tiền. Lần thứ nhất vào ngày 2 tháng 9 năm 1975 theo tỷ giá quy định là
500 đồng Việt Nam Cộng Hòa đổi lấy một đồng Giải Phóng, có nghĩa là năm đồng
tiền cũ đổi lấy một xu tiền mới. Thêm nữa, mỗi hộ, tức mỗi gia đình, chỉ được
đổi tối đa 200 đồng tiền mới, tức 100.000 đồng tiền cũ bất kể hộ có bao nhiêu
nhân khẩu. Có nhiều người, ngay sau khi đổi tiền, cầm những tờ giấy bạc mới đứng
khóc nức nở, khóc mùi mẫn nơi vệ đường.
Vì vậy, người dân có câu
ca dao:
Năm đồng đổi lấy một xu
Thằng khôn đi học, thằng ngu làm thày
“Đi học” ở đây tức là bị
học tập cải tạo còn “thày” tức cán bộ cộng sản phụ trách giảng dậy tại các trại
cải tạo.
Cả nước
thiếu ăn
Sau khi chiếm miền Nam,
cộng sản xóa bỏ quyền tư hữu, áp đặt chế độ bao cấp như tại miền Bắc và phát tem
phiếu để người dân xếp hàng mua nhu yếu phẩm tại mậu dịch, mà nhu yếu phẩm thì
lúc có lúc không. Lúc bấy giờ dân miền Nam mới thấm thía hai câu nhại Kiều của
người miền Bắc từ đầu thập niên 60:
Bắt phanh trần phải phanh trần
Cho may ô mới được phần may ô
(nguyên văn: “bắt phong
trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh
cao“).
Và
Từ khi ta có Bác Hồ
Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào
Vài tháng sau, vật giá
gia tăng một mức khủng khiếp. Rau muống là thức ăn chính của người dân. Có câu
ca dao chơi chữ khá độc đáo mô tả tình trạng này:
Lương chồng, lương vợ, lương con
Đi ba buổi chợ chỉ còn lương tâm
Lương tâm đem chặt ra hầm
Với rau muống luộc khen thầm là ngon
Vài tháng sau nữa, lạm
phát trở thành “siêu phi mã”. Lương tháng trung bình một công nhân viên khoảng
60 đồng tiền mới, chỉ mua được 30 bó rau muống. Người dân bèn réo tên ba lãnh tụ
cao cấp nhất của đảng:
Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh
Ba anh có biết dân tình cho không?
Rau muống nửa bó một đồng
Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân
Rồi dân không còn đủ gạo
để ăn với rau muống vì nhà cầm quyền thu gom gạo để trả nợ chiến tranh. Ngoại
trừ những cán bộ trung cấp và cao cấp trong đảng, gần như cả nước đã phải nhai
sắn thay cơm:
Ai sinh ra cái củ mì?
Hỏi : Để làm gì? Đáp : Để mà ăn!
Nước nhà mãi mãi khó khăn
Dân mình mãi mãi phải ăn củ mì
Ăn sắn, ăn mì, và đi dự
các buổi học tập tại địa phương để hoan hô đảng và đả đảo Mỹ Ngụy là thời biểu
bó buộc của người dân miền Nam lúc ấy:
Dân đói mà đảng thì no
Sức đâu ủng hộ, hoan hô suốt ngày
Đảng béo mà dân thì gầy
Độn bắp, độn sắn biết ngày nào thôi?
Chỉ đôi ba năm sau, ngô
sắn cũng dần cạn, cộng sản Việt Nam cầu viện các đàn anh Đông Âu và được đàn anh
viện trợ hữu nghị cho một món thực phẩm họ thường dùng cho ngựa ăn. Đó là bo bo,
thứ thực phẩm được nhà nước cường điệu gọi là "cao lương". Trong suốt một thời
gian dài cả nước vêu mồm ra mà thi nhau nhai thứ cao lương này. Dù có ninh kỹ và
nhai kỹ đến đâu thì bo bo vẫn là thứ hạt bao tử con người không thể tiêu hóa
nổi, ăn thế nào thì ra thế nấy. Bởi vậy người dân có ca dao
rằng:
Hoan hô độc lập tự do
Để cho tớ nhá bo bo sái hàm
và:
Nhân dân thì chẳng cần lo
Nhà nước lo sẵn bo bo mỗi ngày
Hãy chăm tay cấy tay cầy
Nhịn ăn nhịn mặc chờ ngày vinh quang
Khi truyền miệng câu ca
dao nêu trên, người dân miền Nam hóm hỉnh đọc trại chữ "l" thành "n" để chế nhạo
các cán bộ miền Bắc phát âm sai hai chữ này. Vì vậy câu ca dao bỗng dưng mang
một ý nghĩa khá khôi hài:
Nhân dân thì chẳng cần "no"
Nhà nước "no" sẵn bo bo mỗi ngày
Mùa hè năm 1980, nhằm
mục đích tuyên truyền, cộng sản Việt Nam đã khẩn cầu Liên Xô cho Phạm Tuân làm
“lơ” phi thuyền, tháp tùng phi hành gia Victor Gorbatco trong chuyến bay vào vũ
trụ trên con tầu Liên Hợp. Lúc bấy giờ đang đói vêu vì thiếu ăn, nhân dân bèn có
câu:
Một thằng lên vũ trụ
Trăm thằng đi Mút Cu (Moscow)
Nghìn thằng chè chén lu bù
Để dân bảy mươi triệu đói thò cu ra ngoài
Có người tức quá nên
hoạnh họe:
Nhân dân thiếu gạo thiếu mì
Mày vào vũ trụ làm gì hở Tuân???
Và người khác thực tế
hơn:
Ai lên vũ trụ thì lên
Còn tôi ở lại ghi tên mua mì
Thiếu
mặc
Tình hình miền Nam trong
những năm đầu tiên bị chiếm đóng thật thê thảm. Người dân đã không đủ ăn thì làm
sao đủ mặc. Mỗi năm, một người chỉ được mua vài thước vải xấu theo giá chính
thức từ mậu dịch. Bởi vậy, dân gian có câu ca dao cười ra nước
mắt:
Một năm hai thước vải thô
Nếu đem may áo cụ Hồ ló ra
May áo thì hở lá đa
Chị em thiếu vải hóa ra lõa lồ
Vội đem cất ảnh bác Hồ
Sợ rằng bác thấy tô hô bác thèm
và:
Có áo mà chẳng có quần
Lấy gì hạnh phúc hỡi dân cụ Hồ?
Có đói mà chẳng có no
Lấy gì độc lập, tự do hỡi người?
Trong những nạn nhân của
chế độ, có cả những cựu cán binh cộng sản hưu trí, đặc biệt là những cán bộ tập
kết miền Nam. Đó là những múi chanh đã bị đảng vắt hết nước. Vì vậy, văn học dân
gian có bài thơ nực cười nêu sau để diễn tả tình trạng bi đát của một số sĩ quan
cộng sản từ cấp đại tá trở xuống đã được đảng cho phục viên:
Đầu đường đại tá vá xe
Giữa đường thượng tá bán chè đậu đen
Cuối đường trung tá rao kem
Xa xa thiếu tá thổi kèn đám ma
Đại úy thì đi buôn gà
Thượng uý ở nhà vỡ đất thay trâu
Hỏi trung, thiếu uý đi đâu?
Ba lô hàng lậu xuôi tầu Bắc Nam !!!
Có những người còn ở
trong hoàn cảnh nghiệt ngã hơn:
Ngày xưa chống Mỹ chống Tây
Ngày nay chống gậy ăn mày áo cơm
Thiếu đủ
thứ
Trong chế độ xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, không những người dân thiếu ăn thiếu mặc mà là thiếu đủ thứ, từ
các nhu yếu phẩm cho đến tự do và hạnh phúc:
Ở với Hồ Chí Minh
Cây đinh phải đăng ký
Trái bí cũng sắp hàng
Khoai lang cần tem phiếu
Thuốc điếu phải mua bông
Lấy chồng nên cai đẻ
Bán lẻ chạy công an
Lang thang đi cải tạo
Hết gạo ăn bo bo
Học trò không có tập
Độc Lập với Tự Do
Nằm co mà Hạnh Phúc!
Tuy đã biến cả nước
thành một nhà tù khổng lồ, đảng vẫn hạn chế sự đi lại của người dân. Muốn đi từ
tỉnh này sang tỉnh khác, người dân phải xin giấy phép của chính quyền địa
phương:
Mang danh Dân Chủ Cộng Hòa
Đi ra khỏi tỉnh phải qua cửa quyền
Xuất trình giấy phép liên miên
Chứng từ thị thực ở miền nào qua
Tình trạng này phát sinh
một bài ca dao trào phúng, được phổ biến khắp các miền đất
nước:
Trăm năm trong cõi người ta
Ở đâu cũng được đi ra đi vào
Xa xôi như xứ Bồ Đào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Đen đủi như Ăng Gô La
Người ta cũng được đi ra đi vào
Chậm tiến như ở nước Lào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Chỉ riêng có ở nước ta
Người ta không được đi ra đi vào
Kinh tế mới
và thanh niên xung phong
Với sự hiểu biết thiển
cận về kinh tế cộng thêm một ý thức hệ bệnh hoạn, năm 1976, các lãnh tụ của đảng
cho thành lập những khu kinh tế mới tại những vùng rừng thiêng nước độc. Chỉ nội
trong một năm, nhà cầm quyền đã đầy khoảng 1,4 triệu người dân miền Nam đến sinh
sống tại những khu hoang vu này, trong số đó có 700.000 dân Sài Gòn, hầu hết
thuộc gia đình quân nhân, công chức chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Bài ca dao dưới
đây thuật lại hoàn cảnh đau lòng của những người bị lưu đầy lúc bấy
giờ:
Đuổi dân ra khỏi cửa nhà
Bắt đi kinh tế thật là xót xa
Không sao sống được cho qua
Nên đành lại phải trở ra Sài Gòn
Chẳng ai giúp đỡ chăm nom
Cùng nhau vất vưởng, lom khom vỉa hè
Màn sương chiếu đất phủ che
Sinh ra bệnh tật khò khè ốm đau
Nhưng mà có sống được đâu
Bộ đội kéo đến hàng xâu xúc liền
Chúng đem bỏ tại Tam Biên
Rừng sâu núi thẳm oan khiên buộc vào
Sáu ngàn nhân mạng năm nào
Thảy đều chết đói, biết bao nhục hình
Tháng 3 năm 1976, nhà
cầm quyền phát động phong trào thanh niên xung phong để cưỡng ép sinh viên học
sinh về miền quê công tác, chủ yếu là đào kinh. Có một câu ca dao khá ngộ
nghĩnh, được truyền bá trong các đoàn thanh niên xung phong miền Nam lúc bấy
giờ. Câu ca dao tuy mắng mỏ tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhưng gói ghém sự tiếc
nuối những ngày tháng cũ:
Mồ cha thằng Thiệu rời dinh
Để tao ở lại đào kinh mỗi ngày
Chuyện dài
Hợp Tác Xã
Sau khi chiếm miền Nam,
cộng sản truất quyền tư hữu đất đai và các phương tiện sản xuất khỏi tay nông
dân qua hình thức hợp tác xã tập thể. Với chính sách kinh tế này, nhà nước kiểm
soát việc phân phối thực phẩm bằng cách thu mua và ấn định thuế
khóa.
Câu chuyện nêu sau biểu
lộ sự vô trách nhiệm của giới lãnh đạo đảng:
Vào thập niên 1990, nhà
nước thúc dục người dân, nhất là dân miền Trung, bỏ trồng lúa để trồng mía làm
đường. Tuy nhiên, sau khi ông Fidel Castro đến thăm Việt Nam, các nhà lãnh đạo
đảng hứa giúp Cuba bằng cách nhập khẩu đường mía nước này vào thị trường Việt
Nam. Sau đó, nhà nước thực hiện lời hứa, nhập khẩu đường Cuba suốt mấy năm liền.
Hậu quả là nông dân trồng mía bị sạt nghiệp vì số mía thu hoạch phải bán tống
bán tháo hoặc vứt bỏ. Vì vậy, người dân phẫn uất truyền miệng bài ca dao
sau:
Bắt trồng mà chẳng thu mua
Tại sao đảng nỡ dối lừa nhân dân?
Tiền cầy, tiền giống, tiền phân
Một trăm thứ thuế đổ thân gầy gò
Dân đói mà đảng thì no
Kêu trời, kêu đất, kêu Hồ chí Minh!
Không những chỉ bị lỗ
nặng vì trồng mía, người nông dân còn bị lao đao nhiều lần khác vì phải nghe lời
nhà nước:
Trồng mía, trồng ớt, trồng hành
Vì nghe lời đảng mà thành bể niêu
Trồng tiêu rồi lại trồng điều
Vì nghe lời đảng mà niêu tan tành
Năm 1992, trong một bài
viết tố cáo những sai lầm của cộng sản Việt Nam, thượng tọa Thích Quảng Độ thuật
lại một câu chuyện thú vị ngài đã chứng kiến trong thời gian 10 năm bị quản thúc
tại xã Vũ Đoài, tỉnh Thái Bình, từ 1982 đến 1992. Lúc bấy giờ, các cụ già tại
địa phương này bị xung vào đội trồng cây của hợp tác xã để trồng cây lấy điểm,
cứ trồng năm cây thì được một điểm, đủ để đổi lấy một lạng thóc. Khổ nỗi các cụ
tuổi cao, sức kém, đã trồng không kỹ lại thiếu chăm sóc vì “cha chung không ai
khóc”, nên cây trồng chỉ vài tuần sau là úa héo. Các em bé chăn trâu cho hợp tác
xã mới làm vè trêu các cụ:
Hoan hô các cụ trồng cây
Mười cây chết chín, một cây gật gù
Nghe các cháu trêu, các
cụ bèn phản pháo lại:
Các cháu có mắt như mù
Mười cây chết tiệt, gật gù ở đâu?
Chỉ một thời gian ngắn
sau, hai câu đối đáp hài hước nêu trên đã trở thành ca dao thời đại
mới.
Ấy thế mà cứ vài ba
tháng, đảng lại phát động chiến dịch thi đua cho các hợp tác xã và thúc dục
người dân làm việc bằng hai bằng ba theo lời khuyên của ông Hồ từ những ngày còn
chiến tranh. Người dân bực quá nên có câu:
Thi đua làm việc bằng hai
Để cho cán bộ mua đài mua xe
Thi đua làm việc bằng ba
Để cho cán bộ xây nhà lát sân
Có người còn nhạo
báng:
Thi đua ta quyết tiến lên
Tiến lên ta quyết tiến lên hàng đầu
Hàng đầu... rồi... tiến... về... đâu?
Nhiều phụ nữ đã từng
trải qua lắm gian nan, khổ cực với hợp tác xã mà chẳng “ăn cái giải rút gì”, tức
quá bèn văng tục:
Đi làm hợp tác hợp te
Không đủ miếng giẻ mà che cái l..
Xã hội bất
công
Điều nghịch lý là trong
xã hội chủ nghĩa, một mặt đảng tuyên bố đấu tranh cho công bằng xã hội thì mặt
khác, các nhà lãnh đạo lại tự cho mình hưởng những quyền lợi đặc biệt. Tại Hà
Nội, người dân chua chát truyền khẩu những câu ca dao sau:
Tôn Đản là chợ vua, quan
Vân Hồ là chợ những gian, nịnh thần
Đồng Xuân là chợ thương nhân
Vỉa hè là chợ "nhân dân anh hùng"
Lãnh đạo
giả dối
Có thể nói, trong hơn 50
năm qua, cộng sản Việt Nam cai trị đất nước bằng các thủ đoạn lừa bịp và dối
trá. Trong một bài viết với nhan đề Nhật Ký Rồng Rắn được phổ biến ra hải ngoại
đầu năm 2001, ông Trần Độ, cựu trung tướng quân đội Nhân Dân của cộng sản, đã tố
cáo thủ đoạn này qua những lời lẽ sau:
“Nói thì ‘dân chủ, vì
dân’ mà làm thì chuyên chính phát xít. Cái đặc điểm đó cũng có nghĩa là nói dối,
nói láo, lừa bịp, trò hề, ‘nói vậy mà không phải vậy’.
Suốt ngày đóng trò, cả
năm đóng trò. Ở đâu cũng thấy các vai hề, ở đâu cũng thấy các trò lừa bịp. Suốt
ngày đêm, suốt năm tháng cũng lúc nào cũng chỉ nghe thấy những lời nói dối, nói
lừa.
Chế độ này bắt mọi người
phải đóng trò, bắt tất cả trẻ con phải đóng trò, bắt nhiều người già phải đóng
trò
Đặc điểm này đã góp phần
quyết định vào việc tạo ra và hình thành một xã hội dối lừa: lãnh đạo dối lừa,
đảng dối lừa”.
Tại Việt Nam, một trong
những cơ quan mang tiếng nhất về chuyện có nói thành không, không nói ra có là
nha khí tượng:
Bảo nắng mà trời lại mưa
Mấy thằng khí tượng đoán bừa hại tao
Trời cho một trận mưa rào
Mấy thằng khí tượng làm tao ướt rồi
Ấy thế mà theo người
dân, nghệ thuật nói khoác của nha khí tượng còn kém xa những lãnh tụ cộng sản.
Dưới triều đại Lê Duẩn, người có bí danh “Anh Ba”, thì kẻ đoạt quán quân về nói
khoác lại chính là đồng chí tổng bí thư. Vì vậy, dân gian phát sinh ra câu ví
von:
Thứ nhất anh Ba, nhì Nha
Khí Tượng
Câu ca dao thời đại sau
đây đã nói lên bản chất dối trá và hợm hĩnh của đảng:
Mất mùa là bởi thiên tai
Được mùa là bởi thiên tài đảng ta
Bỏ nước ra
đi
Có thể nói người Việt
Nam là người vô cùng quyến luyến với quê cha đất tổ. Tuy nhiên, khi miền Nam bị
đặt dưới sự cai trị của cộng sản, hàng triệu người dân đã buộc lòng phải bỏ nước
ra đi. Chồng lìa vợ, con xa mẹ xa cha. Trong những năm tháng ấy, kể sao cho xiết
những đau đớn của sinh ly, của “lệ rơi thấm đá”.
Thuở trước, kho tàng ca
dao của dân tộc có câu:
Có con mà gả chồng gần
Có bát canh cần nó cũng mang qua
Có con mà gả chồng xa
Một là mất giỗ, hai là mất con
Khi phong trào vượt biên
bùng nổ vào cuối thập niên 1970, dân miền Nam đã cải biên bài ca dao nêu trên
thành những câu thật dí dỏm:
Có con mà gả chồng gần
Nửa đêm xe đạp mang phần cho cha
Có con mà gả chồng xa
Tháng tháng nó gửi đô la kìn kìn
Lúc bấy giờ, người dân
bảo nhau câu “cái cột đèn nếu nó biết đi, nó cũng vượt biên, chứ đừng nói con
người”. Đâu đâu, người ta cũng bàn về chuyện vượt biên. Ngay cả những cặp tình
nhân, hôm nay còn gặp nhau, nhưng ngày mai có thể sẽ ngàn trùng cách biệt. Có
một bài ca dao khá văn chương, mở đầu bằng hai câu trong bài Phong Kiều Dạ Bạc
của Trương Kế, để diễn tả tâm trạng những kẻ yêu nhau thuở
ấy:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Canh khuya thao thức mạn thuyền
Biết người quân tử vượt biên chốn nào?
Đất nước tang thương, kẻ
ở người đi, lòng người ly tán, tất cả tội lỗi dĩ nhiên phát xuất từ bác Hồ, như
câu ca dao thời đại:
Bác Hồ chết phải giờ trùng
Nên bầy con cháu dở khùng dở điên
Thằng tỉnh thì đã vượt biên
Những đứa ở lại chẳng điên cũng khùng
Đổi
mới
Trước cảnh suy thoái
trầm trọng sau nhiều năm rập khuôn một cách máy móc mô hình xã hội chủ nghĩa
theo Liên Xô; nên để sống còn, đại hội VI của đảng năm 1986 phải đưa ra chính
sách đổi mới, bãi bỏ chế độ bao cấp, và chấp nhận một nền kinh tế nhiều thành
phần. Kinh tế thì hô hào đổi mới nhưng chính trị thì dĩ nhiên vẫn là chuyện độc
quyền của đảng. Cụm từ “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
bỗng một sớm một chiều được phát sinh.
Lúc bấy giờ Đỗ Mười là
tổng bí thư đảng, Lê Đức Anh là chủ tịch nước, còn Võ Văn Kiệt là thủ tướng. Vì
vậy, người dân kháo nhau rằng:
Ông Anh, ông Kiệt, ông Mười
Dở khóc, dở cười biết chọn ông nao?
Ông nào, ông nảo, ông nao
Một đồng một cốt làm sao bây giờ?
"Cửa mở", phải có giấy tờ
"Đổi mới" nhìn lại vẫn thờ mấy ông
Đèn cù cứ chạy lòng vòng
Dân chủ cái còng, tự do đói ăn
Hạnh phúc chú cuội cung trăng!
Tham
nhũng
Trong lịch sử nhân loại,
độc tài về chính trị bao giờ cũng sinh ra tham nhũng. Trước kia niềm mơ ước của
một công dân xã hội chủ nghĩa là làm thế nào để đạt được 4Đ, tức là được vào
“đảng”, để có thể ký cóp những khoản tham nhũng cùng hối lộ cỏn con mà tậu một
chiếc xe “đạp”, một cái “đài” (radio), và một ”đồng hồ” đeo tay (đảng, đạp, đài,
đồng). Tuy nhiên, chỉ vài năm sau đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa dẫn đến sự tham nhũng công khai khiến các đảng viên đang nắm quyền
trở thành giới tư bản đỏ với tài sản lên đến hàng triệu mỹ kim. Vì vậy, dân mình
có những câu ca dao:
Công nhân, vợ ốm con côi
Lãnh đạo nhà gác, xe hơi bộn bề
Bao giờ cho hết trò hề?
và:
Nhà ai giàu bằng nhà cán bộ?
Hộ nào sang bằng hộ đảng viên?
Dân tình thất đảo bát điên
Đảng viên mặc sức vung tiền vui chơi
Tuy sở hữu những tài sản
kếch sù trong lúc quần chúng còn thiếu cơm thiếu áo, các đảng viên cầm quyền vẫn
tiếp tục lải nhải điệp khúc “nhân dân là chủ, đảng là đầy tớ”. Nghe câu ví con
này, các “ông chủ” bèn sôi máu lên mà sáng tác bốn câu ca dao
sau:
Ai về qua tỉnh Nam Hà
Xem lũ đầy tớ xây nhà bê tông.
Tớ ơi, mày có biết không?
Chúng ông làm chủ mà không bằng mày!
Trước đổi mới, các “ngài
đầy tớ” thường chỉ nhận một “thù lao” (hối lộ) khá khiêm nhượng từ những “ông
chủ” (rất nghèo). Chẳng hạn như đối với các cán bộ điện lực, điều kiện để các
ông mắc điện cho các gia đình ở nông thôn nhiều khi chỉ là một buổi tiệc nhậu có
thịt gà thịt lợn:
Muốn cho điện sáng về nhà
Ruột lợn ruột gà phải nối đến nơi
Tuy nhiên, sau đổi mới,
các đảng viên cầm quyền khôn ra, chỉ nhận hối lộ bằng các phong bì nhè nhẹ. Bởi
vậy dân gian có ca dao rằng:
Phong lan, phong chức, phong bì
Trong ba thứ ấy, thứ gì quý hơn?
Phong lan ngắm mãi cũng buồn
Phong chức thì phải cúi luồn vào ra
Chỉ còn cái phong thứ ba
Mở ra thơm nức, cả nhà cùng vui
Đối với các ông thanh
tra của đảng, mỗi khi đến làm việc ở cơ quan hoặc địa phương nào mà được trao
tay một chiếc phong bì thì các ông sẽ biến mọi thứ tiêu cực thành tích cực ngay.
Chứng kiến tệ trạng này, người dân bèn sáng tác hai câu ca dao với cách chơi chữ
cả Việt lẫn Anh đầy nghệ thuật:
Thanh “cha”, thanh mẹ, thanh gì?
Hễ có phong bì thì nó “thanh kiu” (thank
you)
Năm 1996, một tờ báo
phát hành tại Đà Nẵng đã “in chui” được hai câu ca dao sau đây để nói lên bản
chất đảng cộng sản trong thời kỳ đổi mới:
Đảng ta là đảng thần tiên
Đa lô thì được, đa nguyên thì đừng
Khi nói lái, “thần tiên”
là “thân tiền” và “đa lô” thành “đô la”. Quả là hai câu độc
đáo.
Hiện nay, nấc thang giá
trị trong xã hội Việt Nam được định đoạt bởi đồng tiền như bài vè được lưu
truyền trong dân gian từ nhiều năm qua:
Tiền là Tiên là Phật
Là sức bật con người
Là nụ cười tuổi trẻ
Là sức khỏe người già
Là cái đà danh vọng
Là cái lọng che thân
Là cán cân công
lý
Đồng tiền là… hết ý!
Một chuyện khá khôi hài
nói lên tính tráo trở của người cộng sản là trước kia, nhà cầm quyền kết án
người vượt biên là Việt gian, là phản bội tổ quốc. Dân vượt biên bị bắt là bị
tống vào nhà giam, hoặc bị đầy vào trại cải tạo. Thậm chí, có người còn bị công
an xử bắn ngay tại nơi bị bắt. Tuy nhiên, sau đổi mới, đảng đã tha thiết mời gọi
Việt kiều về du lịch và bỏ vốn đầu tư tại Việt Nam. Không những thế, đảng còn ví
von đồng bào hải ngoại là khúc ruột ngoài ngàn dặm của tổ quốc. Trước sự đổi
trắng thay đen này, dân gian bèn có câu:
Ngày đi, đảng gọi “Việt gian”
Ngày về thì đảng chuyển sang “Việt kiều”
Chưa đi: phản động trăm chiều
Đi rồi thành khúc ruột yêu ngàn trùng
Song song với việc chiêu
dụ Việt kiều, đảng ngày càng tỏ thái độ lấy lòng Hoa Kỳ để được hưởng lợi lộc
kinh tế. Tháng 11 năm 2000, khi nhà nước đang tất bật “lo ngày không đủ tranh
thủ lo đêm” để “chiêu đãi” tổng thống Clinton và phái đoàn Hoa Kỳ trong chuyến
viếng thăm Việt Nam thì người dân rỉ tai nhau rằng:
Ngày xưa chửi Mỹ hơn người
Ngày nay nịnh Mỹ chẳng ai bằng mình
Xã hội
xuống cấp
Có thể nói sách lược
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã soi mòn truyền thống đạo
đức của dân tộc một cách trầm trọng. Năm 1996, bà Nguyễn Thị Hằng, thứ trưởng bộ
Lao Động, Thương Binh và Xã Hội cho biết cả nước có ít nhất 76.900 gái mại dâm.
Tuy nhiên, cũng trong năm ấy, theo lời một viên chức cao cấp trong đảng tiết lộ
với báo chí ngoại quốc thì chỉ riêng tại Sài Gòn đã có khoảng 300.000 phụ nữ
hành nghề không vốn này, vượt xa số thống kê chính thức của giới cầm quyền. Đến
nay, đã gần 9 năm trôi qua, số gái mại dâm tại Việt Nam có lẽ còn tăng cao nhiều
hơn nữa?
Trong những năm qua, ca
dao tân thời của xã hội chủ nghĩa không hiếm những câu tương tự như câu tả cảnh
bến Ninh Kiều ở Cần Thơ như sau:
Chiều chiều trên bến Ninh Kiều
Dưới chân tượng bác, đĩ nhiều hơn dân
Nếu trước năm 1975 tại
miền Nam chỉ có một loại dịch vụ “ôm” là bia ôm xuất hiện lác đác một cách bất
hợp pháp tai một vài thành phố lớn, thì hiện nay nhan nhản trên khắp các nẻo
đường đất nước, ngoài bia ôm, người dân có thể thưởng thức đủ thứ dịch vụ “ôm”
hợp với túi tiền từng người như cà phê ôm, chè ôm, cháo ôm, phở ôm, sổ xố ôm,
hớt tóc ôm, tắm ôm, xem video ôm, ngủ ôm, câu cá ôm, v.v. Thậm chí có nhiều tiệm
may còn tặng thêm món hàng đo quần áo ôm cho các đấng mày
râu.
Tuy nhiên, bia ôm vẫn là
dịch vụ phổ biến nhất, như câu ca dao nêu sau, nghe đồn được phát xuất từ một
quán bia ôm gần Văn Miếu ở Hà Nội, nơi đặt những tấm bia đá khắc tên các ông
nghè, tức tiến sĩ thuở xưa:
Trăm năm bia đá cũng
mòn
Bia chai cũng vỡ, chỉ còn bia ôm
Nền giáo dục thì xuống
cấp một cách thê thảm. Đây là điều hiển nhiên vì nhà giáo là những người bị hất
hủi đến cùng cực trong cái gọi là xã hội chủ nghĩa:
Thày giáo lãnh lương ba đồng
Làm sao sống nổi mà không đi thồ
Nhiều thày phải đạp xích lô
Làm sao xây dựng tiền đồ học sinh
và thê thảm
hơn:
Cô giáo phải bán bia ôm
Ôm phải học trò, ăn nói sao đây?
Điều đau xót và tủi nhục
nhất của dân tộc trong những năm gần đây là dưới sự cai trị của những bộ óc “ưu
việt, đỉnh cao trí tuệ”, nhiều phụ nữ miền Nam phải chấp thuận lấy người ngoại
quốc, hầu hết là người Đài Loan và Nam Hàn, để có thể thoát cảnh đói nghèo. Tại
xứ người, đa số bị đối xử như những nô lệ tình dục. Chứng kiến cảnh đau lòng
này, các chàng trai đất Việt đành bùi ngùi than thở:
Tiếc thay cây quế còn soan
Để cho đám mọi Đài Loan nó trèo
và:
Tìm em như thể tìm chim
Chim bay biển Bắc, anh tìm biển Đông
Tìm làm chi để mất công
Đài Loan, Hàn Quốc em dông mất rồi
Châm biếm
và chỉ trích lãnh tụ
Là nạn nhân của sự cai
trị bạo tàn, người dân, nhất là dân miền Nam, đã phải cậy đến một thứ khí giới
đặc biệt để chống lại kẻ mạnh là thi ca trào phúng. Trong suốt 30 năm, nhiều
lãnh tụ cộng sản đã trở thành đối tượng để nhân dân “xả xú bắp” bằng ca dao châm
biếm. Trong những ông này, ngoại trừ ông Hồ, ba ông bị nhắc đến nhiều nhất là
tổng bí thư Lê Duẩn, chủ tịch quốc hội Trường Chinh, và thủ tướng Phạm Văn Đồng,
tức những người lãnh đạo cao nhất của đảng trong 10 năm đầu tiên kể từ khi miền
Nam thất thủ, thời kỳ bị xem là đen tối nhất của lịch sử dân tộc cận
đại.
Với ông Hồ, có khi ca
dao là một bài châm biếm về khả năng lãnh đạo:
Trách ai sinh thứ họ Hồ
Để cho cả nước như đồ vất đi
Có khi là một bài mỉa
mai về tư cách và đạo đức, như chuyện bác “ăn ốc” xong rồi bắt đàn em “đổ vỏ”:
Bác Hồ
đại trí, đại
hiền
Chơi Minh
Khai chán, gá liền Hồng
Phong
Minh Khai phận gái
chữ tòng
Bác Hồ sái
nhất, Hồng
Phong sái nhì
Còn về ba ông Đồng,
Duẩn, Chinh thì thoạt đầu là những lời tố cáo như:
Ông Đồng,
ông Duẩn, ông Chinh
Vì ba ông ấy, dân
mình lầm than
Rồi đến sự căm
phẫn:
Trường Chinh, Lê Duẩn, Văn Đồng
Cả ba đồng lòng giết chết con tôi
Cuối cùng là niềm mơ
ước:
Trường Chinh, Lê Duẩn, Văn Đồng
Ba thằng cùng béo, vặt lông thằng nào?
Vặt lông cả đám cho tao!
Có một chuyện khá khôi
hài xẩy ra trong nội bộ đảng cộng sản vào năm 1983. Lúc bấy giờ đại tướng Võ
Nguyên Giáp bị phe Lê Duẩn và Lê Đức Thọ làm nhục, tước hết binh quyền và giao
nhiệm vụ phụ trách “sinh đẻ có kế hoạch”. Trước hoàn cảnh dở khóc dở cười của
đại tướng, người dân có câu ca dao chế diễu:
Ngày xưa đại tướng cầm quân
Ngày nay đại tướng cầm quần chị em
Còn những chị em… vui
tính hơn thì khúc khích rỉ tai nhau mà bảo rằng:
Khi xưa trấn thủ lưu đồn
Bây giờ đại tướng trấn l.. chúng em
Cuối tháng 6 năm 1991,
đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của đảng bầu ông Đỗ Mười làm tổng bí thư
và cử ra một ban chấp hành trung ương đảng gồm 146 ủy viên. Sau đại hội, có mấy
ông công dân rỗi việc, mò mẫm sưu tra lý lịch của 146 ngài đỉnh cao trí tuệ này
thì cả nước mới hay chỉ 10 phần trăm đạt được thành tích vẻ vang là đã hoàn tất
bậc trung học. Đặc biệt, đồng chí tổng bí thư thì hoặc tự bỏ học hoặc bị đuổi
học từ năm lớp ba. Bởi vậy, dân gian có câu ca dao khen đồng chí
rằng:
Giỏi a đồng chí Đỗ Mười
Lớp ba chưa đỗ đã ngồi bí thư
Một trong những thành
tích đáng tủi hổ của cộng sản Việt Nam là ồ ạt xuất khẩu nhân công sang lao động
tại xứ người vì không tạo nổi công ăn việc làm cho người dân. Chỉ trong năm
2004, nhà cầm quyền đã đưa gần 70.000 người dân đi làm thuê tại các nước ngoài,
hầu hết đến Đài Loan, Nam Hàn, và Mã Lai là những nước có nền kinh tế còn kém
Việt Nam thời chưa bị họa cộng sản ở nửa thế kỷ trước. Tại những xí nghiệp thuộc
những nước này, người nhân công Việt Nam bị đối xử như những nô lệ của thời đại
mới. Dân gian bèn có câu châm biếm:
Vẻ vang thay lãnh tụ ta
Đem dân xuất khẩu bán ra nước ngoài
So sánh với thực dân
Pháp thuở xưa, đảng cộng sản Việt Nam hôm nay tệ hại hơn nhiều về thành tích bóc
lột nhân dân và chiếm đoạt tài nguyên đất nước:
Ngày xưa giặc Pháp mộ phu
Ngày nay đảng bán dân ngu lấy tiền
Đảng ta là đảng cầm quyền
Đảng bán ruộng đất lấy tiền đảng tiêu
Không những thế, để bảo
đảm chiếc ghế lãnh đạo, những ông lớn của đảng còn đang tâm nhượng một phần lãnh
thổ quốc gia cho Trung Quốc. Điển hình là các hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa
và Hoàng Sa, cùng một giải đất rộng lớn bao gồm ải Nam Quan và thác Bản Giốc ở
cực Bắc nước ta. Các câu ca dao nêu sau nói lên lòng phẫn uất của nhân dân trước
sự kiện này:
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Cúi đầu dâng đảo Trường Sa cho Tầu
và:
Tiên sư cộng sản Việt Nam
Cuối đời bán cả giang san nước nhà
Tương lai
về đâu?
Nhiều người Việt ở hải
ngoại từng về thăm quê hương trong những năm gần đây cho rằng Việt Nam đã tiến
một bước khá dài kể từ đổi mới, và ánh sáng ngày một sáng hơn ở cuối đường hầm.
Tuy nhiên, đây chỉ là một nhận định phiến diện căn cứ trên sự phát triển tại các
thành phố lớn. Đồng ý là trong gần hai thập niên qua, sau khi cộng sản trả lại
phần nào quyền tư hữu cho người dân và chấp nhận tự do kinh doanh có giới hạn,
nền kinh tế đã tăng trưởng khoảng bẩy, tám phần trăm mỗi năm. Con số này quả là
to lớn với những nước đã phát triển nhưng không thể gọi là đáng khích lệ đối với
những nước đang cố vươn lên từ nền kinh tế lạc hậu và đang sở hữu một khối lượng
nhân công quá rẻ so với những quốc gia khác. Ngoài ra, phần lớn sự phát triển
hiện nay bắt nguồn từ khoản “viện trợ” của “khúc ruột ngoài ngàn dặm”, tức số
tiền các Việt kiều gửi về cho thân nhân và đầu tư ở Việt Nam, cũng như tiêu pha
trong các chuyến về thăm quê hương. Con số này đã lên đến hơn ba tỉ mỹ kim trong
năm 2004.
Thêm nữa, điều đáng nói
là tại Việt Nam, tài sản quốc gia không được phân chia đồng đều vì hầu hết ở
trong tay các cán bộ cao cấp và giới tư bản đỏ liên minh kinh tế với họ. Đại đa
số nhân dân, nhất là những người ở nông thôn, còn thiếu ăn thiếu mặc một cách
trầm trọng. Nước ta bị sa vào vòng luẩn quẩn không lối thoát. Có quyền thì có
tiền và khi có tiền thì giữ được quyền. Điều nghịch lý là vài thập niên sau khi
vỗ ngực huênh hoang là đã tiêu diệt được chế độ phong kiến, thì ngày hôm nay,
cộng sản đã biến xã hội Việt Nam trở nên phong kiến hơn bất cứ giai đoạn nào
trong lịch sử. Đau đớn nhất là dưới sự cai trị của đảng, tham nhũng đã dần dần
trở thành một giá trị tiêu cực của nền văn hóa dân tộc, một tệ trạng không phải
một sớm một chiều có thể diệt trừ, kể cả khi chế độ cộng sản đã cáo chung.
Dưới ngọn cờ chỉ đạo xã
hội chủ nghĩa, Việt Nam sẽ đi về đâu? Người dân sẽ ấm no hơn chăng, sẽ hạnh phúc
hơn chăng? Bốn, năm thập niên về trước, dân gian đã vỗ vai ông Hồ mà bảo “này
ông, chuyện ấy còn lâu”. Câu nói ấy vẫn chính xác và sẽ còn chính xác cho đến
ngày nào Việt Nam còn bị đặt dưới sự cai trị của cộng sản. Chẳng tin, cứ hỏi ông
Lê Nin thì biết!
Ơ hay, sao lại có chuyện
Lê Nin ở đây? Ông ấy đã “đang từ khỏe mạnh chuyển sang từ trần” từ hơn tám thập
niên rồi cơ mà!
Câu chuyện như sau:
Năm 1985, cộng sản Việt
Nam cho xây tượng đài Lê Nin cao đến 5,2 thước trong công viên Chi Lăng, gần
quảng trường Ba Đình, tại Hà Nội. Ngay sau khi tượng được khánh thành, người dân
Hà Nội có bài ca dao nhại theo lời một bài vè ca tụng Lê Nin của thi nô Tố Hữu.
Bài ca dao của nhân dân như sau:
Ông Lê Nin ở nước Nga
Sao ông lại đến vườn hoa nước này?
Ông ưỡn ngực, ông chỉ tay
Ông xem như thể nước này của ông
Ít lâu sau, cộng sản
Liên Xô sụp đổ, người dân bèn “hồ hởi” đọc cho nhau nghe bản hiệu đính của bài
ca dao trên. Mỗi lần đọc xong lại cùng cười hô hố một cách cực kỳ… phản
động:
Lê Nin quê
ở nước
Nga
Cớ sao
lại đứng
vườn hoa nước
này?
Ông vênh
mặt, ông chỉ
tay:
Tự do,
hạnh phúc lũ mày còn xa
Kìa xem
gương của
nước Nga
Bẩy
mươi năm lẻ có ra
đếch gì!
Đấy, ông Lê Nin nói đấy:
“tự do, hạnh phúc lũ mày còn xa”. Quả là hơn sáu thập niên sau khi chết, đến
ngày cộng sản Liên Xô tan rã, ông Lê Nin mới sáng mắt ra.
Ngày hôm nay, gần hết
tháng giêng năm 2005, tin tức từ bên nhà cho biết dịch cúm gà đã tái bùng nổ tại
23 tỉnh. Đúng một năm trước, bệnh dịch này đã hoành hành trên khắp đất nước
khiến nhiều người thiệt mạng đến nỗi nhà cầm quyền phải ra lệnh giết cả chục
triệu con gà để ngừa bệnh lan tràn. Ngay sau khi dịch gà lắng đọng thì dịch heo
bộc phát tại miền Nam gây biết bao thiệt hại cho dân nghèo. Trước sự kiện gà và
heo đồng loạt lăn quay ra chết vì dịch, người dân đã khẩu truyền cho nhau một
câu ca dao thật đặc sắc:
Dịch heo nối tiếp dịch gà
Bao giờ dịch đảng cho bà con vui
Bao giờ thì bà con mới
được vui? Căn cứ vào một câu ca dao thuộc loại sấm truyền được lưu hành trong
dân gian từ vài thập niên trước thì ngày ấy không còn xa lắm
đâu:
Bao giờ Hồ cạn, Đồng khô
Chinh rơi, Giáp rách, cơ đồ mới yên
Xét về khía cạnh nghệ
thuật, câu sấm truyền quả là đắt giá vì “hồ”, “đồng”, “chinh”, và “giáp” hiểu
theo nghĩa đen là “ao hồ”, “đồng ruộng”, “cái chiêng” và “áo giáp”. Theo nghĩa
bóng thì bao giờ các ông Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, và Võ Nguyên
Giáp về chầu ông tổ Mác thì bà con cả nước mới có thể an vui. Đến nay, trong số
này chỉ còn ông Giáp, nhưng đại tướng nhà ta đã 94 tuổi, như ngọn đèn dầu leo
lét trước gió, có muốn “cầm quần chị em” như thuở trước thì cũng chẳng còn đủ
sức mà cầm. Cái ngày “Giáp rách” chắc chắn sẽ xẩy đến chỉ trong nay
mai.
Trong kho tàng văn
chương truyền khẩu Việt Nam, đa số những câu ca dao phát sinh từ thuở nước ta
chưa gặp họa cộng sản và được truyền đến hôm nay là những câu hoặc gói ghém tình
cảm con người, nhất là tình yêu nam nữ, hoặc ca ngợi hình ảnh đất nước. Rất ít
câu ta thán về sự bạo ngược của chế độ cũng như chỉ trích và châm biếm giới cầm
quyền như những câu ca dao thời xã hội chủ nghĩa. Điều này chứng tỏ cộng sản là
chế độ gây nhiều lầm than nhất cho dân tộc chúng ta kể từ ngày lập
quốc.
Tuy nhiên, khi lật bất
cứ tác phẩm sưu tầm ca dao nào được xuất bản tại Việt Nam trong 30 năm qua,
chúng ta không bao giờ bắt gặp những câu mang nội dung tương tự những câu trích
dẫn trong bài này. Những câu ca dao thời hiện đại được đăng trong những tác phẩm
ấy là những câu ca tụng bác và đảng, ca tụng cuộc kháng chiến chống Pháp, và
cuộc chiến chống Mỹ Ngụy. Dĩ nhiên, những câu này được sáng tác bởi lũ bồi bút
của chế độ. Vì vậy, ngoài sự hiện diện trong tác phẩm, chúng không hề được lưu
truyền trong dân gian. Đây là một lừa bịp trâng tráo của đảng và lũ bồi
bút.
Tại Việt Nam, năm 1977,
ông Vũ Ngọc Phan hoàn tất việc sưu tập và trước tác quyển “Tục ngữ, ca dao, dân
ca Việt Nam”, trong đó có bao gồm phần “Ca dao chống Mỹ cứu nước”, với nhiều bài
ca ngợi bác và đảng, dài đến 40 trang sách. Tác phẩm này đã được nhà cầm quyền
cho in đến 10 lần tính đến năm 1994. Tuy nhiên, với bản tính lương thiện hiếm
thấy so với những người cầm bút khác đã và đang phục vụ chế độ, ông Vũ Ngọc Phan
đã cẩn thận ghi tên tác giả của từng bài… “ca dao” trong phần chống Mỹ cứu nước.
Là một học giả thành danh từ đầu thập niên 40, dĩ nhiên ông thừa hiểu ca dao là
một bài thơ hay vè ngắn (thường là lục bát) từ hai câu trở lên do một người làm
ra, rồi qua miệng từng người, dần dần được sửa đổi (một cách ngẫu nhiên) cho đến
khi được hoàn chỉnh, tức khi đã phản ảnh đích thực được tâm lý quần chúng. Như
vậy, tác giả của ca dao chính là dân gian. Một bài thơ hay vè có ghi tên tác giả
không thể là một bài ca dao. Có lẽ tuy hiểu như vậy, nhưng ông Vũ Ngọc Phan vẫn
phải bao gồm những bài vè này trong phần ca dao chống Mỹ để thỏa mãn yêu cầu của
những người lãnh đạo đảng.
Người viết hy vọng rằng
ở một thời điểm không xa, sẽ có những vị thiết tha với văn hóa dân tộc bỏ công
san định các câu ca dao đã lưu hành trong suốt thời gian Việt Nam bị đặt dưới
ách cộng sản để ghi lại trong những tác phẩm xuất bản tại hải ngoại. Những câu
ca dao “ngoài luồng” này mới thực sự có giá trị về cả hai phương diện văn học và
lịch sử. Mai sau, khi đọc những tác phẩm ấy, những thế hệ tương lai ở cả quốc
nội lẫn hải ngoại có thể phần nào hiểu được nỗi khổ đau cha ông họ đã phải gánh
chịu, để họ có cơ hội được làm người. Những tác phẩm ấy cũng sẽ khiến các nhà
cầm quyền (không cộng sản) sau này phải đắn đo hơn khi cai trị đất nước, nếu
không muốn trở thành “ngàn năm bia miệng” như những người cầm quyền trong nửa
thế kỷ qua.
Và, cuối cùng, người
viết cũng hy vọng rằng những thế hệ tương lai ấy, họ sẽ không phải khổ sở đánh
vật với miếng cơm manh áo như cha ông chúng suốt bao thập niên qua; họ cũng
không phải đón nhận, không phải truyền đi những câu ca dao có những giọt lệ đau
xót ẩn dấu trong tiếng cười, như những câu ca dao đăng trong bài
viết.
Những thế hệ tương lai
ấy, họ sẽ có thời giờ, nhiều thời giờ là khác, để đọc những câu ca dao thắm
thiết tình cảm của dân tộc, họ sẽ rung động (đến xúc động) khi bắt gặp những câu
như “Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn, Tào Khê nước chẩy vẫn còn trơ
trơ”.
Và họ sẽ cảm thấy yêu
dân tộc hơn, yêu quê huơng hơn: yêu nồng nàn và tha thiết.
Nguyễn Ngọc
Bảo
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen