Kính thưa quý vị,
Trong cuộc sống, sự thành công hay thất bại nào cũng có cái giá của
nó. Trong chiến tranh cũng vậy, cái giá của những chiến tích lừng
danh mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) phải trả, là những đồng
đội đã hy sinh, những đồng đội khác đã để lại một phần thân thể
trên khắp miền đất nước, và hệ lụy dài lâu là những đứa trẻ vĩnh
viễn xa cha, những người vợ vĩnh viễn xa chồng! Người quân nhân hy
sinh vì tổ quốc, là sự hy sinh cao cả mà tổ quốc mãi mãi ghi ơn.
Nhưng, hình ảnh người quả phụ, với một nửa tâm hồn, một nửa con
tim, một nửa phần hơi thở, theo chồng lên đài tổ quốc ghi ơn, và
những nửa còn lại có trách nhiệm trang bị cho các con một hành
trang vào đời, phải được thừa nhận là sự hy sinh không kém phần cao
cả như người chồng dũng cảm nơi chiến trường, rất xứng đáng được
chúng ta kính trọng.
Cũng trong chiến tranh VN, chồng ở chiến trường, vợ ở nhà quán
xuyến công việc gia đình mà công việc gia đình nhiều đến nỗi có
những việc chưa kịp đặt tên, nhưng tất cả đều là việc. Chăm sóc các
con, chăm sóc tình thân gia đình quyến thuộc, chăm sóc tình bạn bè
bằng hữu. Để rồi, những giờ phút yên tỉnh về đêm khi các con chìm
trong giấc ngủ, mơ màng nghĩ đến chồng nơi chốn xa xôi, hay đang
trong chiến trường khốc liệt, với bao khắc khoải lo âu, nhớ thương,
sầu muộn!
Rồi chiến tranh chấm dứt trong nỗi nghẹn ngào uất hận, bởi đây là
cuộc chiến mà cuối cùng “bị chấm dứt để thua trận”! Sau lời tuyên
bố của Tổng Thống cuối cùng, hàng trăm ngàn đồng bào, quân nhân,
viên chức, cán chính, bỏ của chạy lấy người, tỵ nạn trên đất Mỹ.
Với những thành phần tương tự như vậy gồm 222.809 người, lũ lượt bị
cộng sản gian dối lọc lừa vào 200 trại tập trung trên khắp miền đất
nước. Người 5 năm, 10 năm, 15 năm, thậm chí 17 năm ròng rã hoặc hơn
nữa, do lòng thù hận tột cùng của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Hằng trăm ngàn gia đình di tản ra ngoại quốc, cũng như hằng chục
triệu gia đình còn lại trên quê hương, tất cả đều hụt hẫng. Hụt
hẫng vì cuộc sống trên đất người với biết bao xa lạ trong một xã
hội kỹ nghệ mà bước đầu chưa thể hội nhập. Hụt hẫng vì phút chốc,
từ chế độ tự do bị đẩy vào chế độ độc tài cộng sản trên toàn cõi
Việt Nam!
Cảnh đời thứ nhất. Trong cuộc đời tỵ nạn, vợ chồng con cháu có cơ
hội bên nhau, cùng chia xẻ khổ đau, cùng gánh vác nhọc nhằn, cùng
nhận chung nỗi nhục! Nỗi nhục phải rời khỏi quê hương VN trong thân
phận lưu vong! Với những bà vợ chúng ta, vốn sinh ra và trưởng
thành trong xã hội nông nghiệp, nay phải cùng chồng từng bước hội
nhập vào xã hội kỹ nghệ nơi định cư mới, đã phải đêm đêm đếm bước
từ bến xe công cộng về nhà trong màn sương tuyết lạnh sau những giờ
nhọc nhằn nơi hãng xưởng. Lạnh đến nỗi không biết giọt nước lăn
trên má là nước mắt, hay mảnh tuyết vừa tan!
Cảnh đời thứ hai. Trong xã hội mà kẻ thắng trận đầy lòng thù hận,
thì gia đình ly tán, sự sống bị bóp nghẹt đến tận cùng của khổ đau,
của nước mắt bởi chính sách bịt mắt, bịt tai ,bịt miệng! Cái chế độ
mà những người lãnh đạo luôn miệng huênh hoang là “dân chủ gấp trăm
lần dân chủ tư bản”, lại bắt mọi người phải sống trong nỗi sợ hãi
triền miên với những đôi mắt rình rập quanh năm suốt tháng!
Cảnh đời thứ ba. Riêng với những bà vợ ở lại mà chồng đã vào tù,
còn tệ hơn nhiều so với hai cảnh đời nói trên. Hằng ngày phải đối
phó với bọn cầm quyền địa phương, cái bọn mà đầu óc toàn đất sét,
bả đậu và rác rưởi, chỉ biết đe dọa, đàn áp để cướp đoạt. Đồng thời
phải chăm lo cuộc sống các con từng ngày, lo nuôi chồng từng tháng!
Những bà vợ chúng ta, hải ngoại hay trong nước, thật sự là Những
Người Đàn Bà Việt Nam rất can đảm khi phải chịu đựng và vượt qua
nỗi đau nỗi nhục nhằn đó! Đau đến nỗi không còn nước mắt để khóc,
nhục đến nỗi chẳng còn lời để thở than! Nếu đem so sánh giữa hai
cảnh đời trong nước với ngoài nước, thử hỏi: “Ai đau hơn ai và ai
nhục hơn ai?” Với tôi, không ai đau hơn ai, cũng không ai nhục hơn
ai! Vì nỗi đau nào cũng có cái đau riêng của nó, nỗi nhục nào cũng
có cái nhục riêng của nó! Xin những ông chồng lính diểm phúc, hãy
nhìn lại đôi nét về hình ảnh Những Bà Vợ Chúng Ta trong cuộc sống
khổ đau thầm lặng đó, mà người viết được những bà vợ trong cuộc kể
lại:
Một cảnh đau thương. Một bà vợ cùng con cầm giấy phép “gánh gạo”
nuôi chồng trên đất Bắc. Ba ngày đi, ba ngày về, 2 tiếng đồng hồ
gặp gở! Khi trở về cư xá Bắc Hải, nhà bị niêm phong với dòng chữ
“nhà vắng chủ”. Đau đớn biết bao! Xót xa biết dường nào! Bỗng dưng
nhà bị mất! Bà gục đầu vào cửa! Bà cùng gia đình định cư tại
Houston, Texas từ tháng 4 năm 1991.
Một cảnh đau thương khác. Một bà vợ đã bao nhiêu lần bị công an
Phường ra lệnh đi khu kinh tế mới, nhưng bà vẫn không đi. Chúng
hành hạ bằng cách gọi bà đến văn phòng, bảo ngồi đó từ đầu giờ đến
cuối giờ, ngày nào cũng vậy, và ròng rã 6 tháng như vậy. Một hôm,
chúng bảo đưa giấy tờ nhà để giải quyết. Khi chụp được hồ sơ nhà,
lập tức tên công an ra lệnh trong vòng 24 tiếng đồng hồ bà phải ra
khỏi nhà. “Ôi! Còn nỗi đau nào cao hơn nỗi đau này trong cảnh đời
thua trận!” Bà xiêu vẹo trên đường về nhà cách đó mấy dãy nhà liên
kế cũng trong cư xá Bắc Hải, và gục ngã ngay trước nhà! Bà cùng gia
đình định cư vùng bắc California từ năm 1993, nhưng chồng đã qua
đời vào năm 2003.
Một cảnh đau thương khác nữa. Một bà vợ có chồng bị giam trên đất
Bắc hằng chục năm trời, bỗng dưng mất liên lạc. Bà lặn lội khắp các
cơ quan tại Sài Gòn, Hà Nội, tốn kém, mệt nhọc, nhưng hoàn toàn bặt
tin. Nỗi buồn đến với bà quá sức chịu đựng của người phụ nữ tuổi
50, mà có lúc bà cảm thấy như mình đang bên bờ vực thẳm, rồi ngã
dần xuống…… Bà bị tai biến mạch máu não, nằm bất động một chỗ.
Nhiều tháng sau đó, bất ngờ, người nhà của bà nhận được giấy cho
phép bà thăm chồng. Trại tù chỉ cách nhà vỏn vẹn 1 cây số (đó là
khám Chí Hòa). Bạn bè khiêng bà đến nhà tù. Cả hai “chồng đứng đó,
vợ liệt toàn thân”, chỉ biết nhìn nhau, òa khóc…! Khóc cho mình!
Khóc cho cuộc đời! Phải chăng, mọi khổ đau trên cõi đời này đang
bao quanh hai con người đau khổ đó? Không. Không chỉ có vậy.
Mà là tất cả những bà vợ có chồng bị cộng sản giam giữ trong tù,
tiêu biểu qua 3 cảnh đời trên đây trong hàng vạn cảnh đời trên đất
nước Việt Nam, đều trong nỗi khổ tột cùng đó! Tình trạng bại liệt
đó theo Bà cùng chồng định cư tại Houston, nhưng rồi Bà đã từ trần
năm 2004!
Sài Gòn-Hà Nội 1.736 cây số, xe lửa tốc hành chạy 72 tiếng đồng hồ,
tức 3 ngày 3 đêm. Mỗi người chỉ được mang theo 20 ký lô lên xe lửa,
mang nhiều hơn số đó phải hối lộ cho một loạt nhân viên hỏa xa từ
cổng vào cho đến nhân viên trên xe lửa. Hành lý ngổn ngang cả trên
lối đi giữa toa xe. Ban ngày cũng phải lách từng bước chân vào chỗ
trống. Còn ban đêm, thật khó mà tưởng tượng! Hai băng ngồi đối
diện, một băng 3 người. Hai băng phía bên kia lối đi, mỗi băng 2
người ngồi. Hai đầu trên của hai băng 6 người, máng được 3 cái võng
cho 3 người, 1 người nằm co quắp trên sàn xe đen đúa nhầy nhụa giữa
2 băng đối diện, và 2 người còn lại cũng nằm co quắp trên 2 băng
ngồi. Nếu nhìn toàn cảnh của toa xe lửa sẽ thấy, băng ngồi đầy
người nằm, những chiếc võng bé xíu che kín trên đầu băng, cả lối đi
vốn dĩ đã nhỏ hẹp cũng đầy người nằm chen lẫn trong đống hành lý
thật hổn độn. Những bà vợ thăm chồng, mang theo hằng trăm ký lô,
biết bao là nhọc nhằn gian khổ khốn khó!
Giả thử, nếu những ông chồng chứng kiến những hành khách nằm cong
queo trong cái gọi là chiếc võng kia, hay co quắp giữa những gói
quà đầy ấp tình thương trên sàn xe lửa nhớp nhúa đó, là những bà vợ
của mình, liệu có cầm được nước mắt không? Nghe nói lại, nghe thuật
lại, ông chồng nào cũng đớn đau thương cảm cho tình cảnh những bà
vợ quanh năm gánh gạo nuôi chồng! Nhưng không có đớn đau thương cảm
nào có thể đem cân bằng nỗi đớn đau thương cảm của những bà vợ trọn
tình vẹn nghĩa như vậy được cả!
Tôi hình dung những bà vợ chúng ta qua hình ảnh trên đây mà chính
tôi trông thấy khi tôi ra trại tập trung cùng với 90 “bạn đồng tù”,
từ Nam Định về Sài Gòn bằng xe lửa đúng 72 tiếng đồng hồ hồi tháng
9 năm 1987.
Trên đây là một cố gắng dựng lại hình ảnh “Những Bà Vợ Chúng Ta”,
nếu không rõ nét thì ít ra cũng là những nét chính của hình ảnh ấy,
qua sự kết nối bốn hợp phần sau đây: Hai hợp phần trong chiến
tranh, là những bà vợ mà chồng đã hy sinh, và những bà vợ mà chồng
đang chiến đấu.
Hai hợp phần sau chiến tranh, là những bà vợ cùng chồng con di tản ngoại quốc, và những bà vợ ở lại Việt Nam, vừa nuôi con trong một xã hội đầy hận thù và kỳ thị, vừa nuôi chồng trong những trại tập trung nghiệt ngã!
Hai hợp phần sau chiến tranh, là những bà vợ cùng chồng con di tản ngoại quốc, và những bà vợ ở lại Việt Nam, vừa nuôi con trong một xã hội đầy hận thù và kỳ thị, vừa nuôi chồng trong những trại tập trung nghiệt ngã!
Những cảnh đời bi thương, những khổ đau sầu muộn, những nước mắt,
mồ hôi, được khơi lên từ những góc cạnh li ti trong hằng vạn hằng
vạn cảnh đời như vậy, mà Những Bà Vợ Chúng Ta đã chịu đựng trong
những năm dài thật dài!
Quyển “Chân Trời Dâu Bể” của Giao Chỉ, kể chuyện trên đất Mỹ, và
quyển “Giữa Dòng Nghịch Lũ” của Duy Năng, kể chuyện trên quê hương
Việt Nam. Hai tác phẩm này trong một mức độ nào đó, có thể xem là
tiêu biểu cho rất nhiều tác phẩm dưới dạng chuyện kể thật bình
thường, nhưng ôm ấp biết bao xót xa thương cảm cho thân phận người
phụ nữ Việt Nam sau ngày thua trận, dù sống trong hai xã hội cách
nhau nửa vòng trái đất. Với tác phẩm của Duy Năng, người kể chuyện
là bà Hàng Phụng Hà. Bà là một trong số hằng trăm ngàn bà vợ thăm
nuôi chồng trong tù. Ở phần kết, bà nói:
“… Các anh trong tù, khổ về vật chất và đau về tinh thần đến
vạn lần, điều đó chúng tôi biết. Nhưng, chúng tôi -những bà vợ của
các anh- đau khổ gấp ngàn cái vạn lần của các anh nữa, các anh có
biết không? Tôi không đề cao một bà vợ nào, mà tôi đề cao tất cả
những bà vợ thăm nuôi chồng trong các trại tù cải tạo. Bởi vì: Họ,
đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ Miền Nam VN. Họ, rất xứng đáng
được các anh kính trọng, trân trọng những việc làm của Họ. Và Họ,
chính là "Vợ của các Anh đó”.
Vì vậy mà một số bạn đồng tù chúng tôi trong trại tập trung, đã
không quá lời khi nói với nhau rằng: “Ra tù, chúng ta phải cõng vợ
chúng ta đi vòng quanh trái đất, để đền bù đôi chút về sức chịu
đựng biết bao nhọc nhằn gian khổ đã nuôi các con và nuôi chúng
mình”. Bây giờ nhìn lại, trong một ý nghĩa nào đó, những cựu
tù nhân chính trị chúng ta, đã cõng vợ đi được nửa vòng trái đất
rồi. Đến ngày Việt Nam thật sự Tự do Dân chủ, chúng ta sẽ cõng vợ
trở về quê hương VN là trọn vòng trái đất như đã tự hứa, phải không
quý vị?
Với nét chân dung đó, tôi quả quyết rằng, Những Bà Vợ Chúng Ta rất
xứng đáng được Vinh Danh. Và nếu quý đồng đội và quý vị đồng hương
đồng ý với tôi, chúng ta cùng nói to, hô to lên rằng:
“Chúng ta cùng vinh danh Những Bà Vợ Chúng Ta là những người đàn bà
cao cả, rất xứng đáng được kính trọng. Bởi, trong hoàn cảnh nghiệt
ngã của chế độ độc tài cộng sản, nhưng đã đứng vững trong phẩm giá
Người Vợ Miền Nam Việt Nam, cùng lúc, chu toàn thiên chức làm Mẹ,
và tròn bổn phận làm Con”.
Vinh Danh bằng những tiếng nói ân tình bên tai vợ, trao tặng vợ một
bông hồng thật đẹp, hôn vợ những nụ hôn thật dài. Điều đó luôn nhắc
nhở người chồng trong cuộc sống thường ngày, phải thể hiện lòng
hiểu biết vợ mình nhiều hơn, cảm thông vợ mình nhiều hơn, rồi quàng
tay vào lưng vợ mình chặt hơn, để cùng nhau đi suốt chiều dài còn
lại trong cuộc sống lứa đôi thật mặn nồng, như chưa bao giờ mặn
nồng đến như vậy!. Trường hợp vì lý do gì đó mà bạn đang sống một
mình, xin bạn hãy gắn bông hồng màu đỏ lên nơi nào, mà khi nằm nghỉ
bạn đều trông thấy, để trao tặng vợ khi đoàn tụ bên nhau. Hoặc sự
trông thấy đó, sẽ giúp bạn có được những giây phút sống lại những
năm tháng mặn nồng trong tình yêu vợ chồng thuở chung chăn chung
gối, thuở mà hai người dùng chung một tên./.
(source from PhạmBáHoa’s blog) /
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen