Ngày 23 tháng 3, 2017, Giáo sư Drew Gilpin Faust, Viện trưởng Viện
Đại Học Harvard viếng thăm Đại học Fulbright Việt Nam. Nhân dịp này
bà đọc một diễn văn tại Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn. Phần
khá dài của diễn văn, bà dành để nói về Chiến tranh Việt Nam, nội
chiến Hoa Kỳ và hòa giải Nam Bắc Mỹ.
Trong suốt diễn văn bà Drew Faust không hề nhắc đến sự chịu đựng
của người dân miền Nam Việt Nam hay nhắc đến Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH), chính phủ đại diện cho hơn một nửa dân số Việt Nam ngày đó.
Người viết không nghĩ bà dè dặt hay không muốn làm buồn lòng quốc
gia chủ nhà. Nhưng giống như một số khá đông các trí thức Mỹ trước
đây, sau 44 năm từ khi các đơn vị trực tiếp chiến đấu Mỹ rút khỏi
Việt Nam vào tháng Ba năm 1973, bà vẫn chưa nhìn sâu được vào bản
chất của cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Việt Nam trong diễn văn của bà Drew Faust là Cộng Sản Việt Nam.
Bà Drew Faust không hiểu được trên con đường Việt Nam đầy máu nhuộm
chạy dài suốt 158 năm, từ khi viên đại bác của Rigault de Genouilly
bắn vào Sơn Chà, Đà Nẵng sáng ngày 1 tháng 9, 1859 cho tới hôm nay,
nhiều triệu người Việt đã hy sinh vì độc lập tự do dân tộc. Đảng CS
là một nhóm rất nhỏ, và chỉ ra đời vào tháng 3, 1930. Cộng Sản
thắng chỉ vì họ có mục đích thống trị rõ ràng, kiên trì và bất chấp
mọi phương tiện để hoàn thành mục tiêu đã vạch ra.
Bà Drew Faust là người học nhiều, hiểu rộng. Chắc chắn điều đó
đúng. Nhưng nghe một câu chuyện và cảm thông với những nạn nhân
trong câu chuyện là một chuyện khác. Ngôn ngữ không diễn tả được
hết nỗi đau và đôi mắt thường không thấy được những vỡ nát bên
trong một vết thương.
Là một sử gia, bà biết lịch sử được viết bởi kẻ cưỡng đoạt không
phải là chính sử. Chính sử vẫn còn sống, vẫn chảy nhưng chỉ được
hiểu bằng nhận thức khách quan, tinh tế, chia sẻ với những tầng lớp
người đang chịu đựng thay vì đứng về phía giới cầm quyền cai trị.
Một ví dụ về chính sử. Năm 1949 tại Trung Cộng, trong cuộc bỏ phiếu
bầu chức vụ Chủ tịch Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Mao tin tưởng
tuyệt đối 547 đại biểu sẽ bỏ phiếu cho ông ta. Không, chỉ có 546
người bỏ phiếu thuận, nhà nghiên cứu triết học Zhang Dongsun bỏ
phiếu chống lại Mao. Zhang Dongsun bị đày đọa và chết trong tù
nhưng lịch sử Trung Hoa ngày sau sẽ nhớ đến ông như một người viết
chính sử Trung Hoa.
Việt Nam cũng thế. Chính sử vẫn đang được viết không phải từ những
người đang đón tiếp bà mà bằng những người đang ngồi trong tù, đang
bị hành hạ, đày ải, trấn áp dưới nhiều hình thức. Khát vọng độc
lập, tự do, từ những ngày đầu tháng 9, 1859 ở Cẩm Lệ, Quảng Nam,
nơi máu của Đô Thống Lê Đình Lý chảy xuống để bảo vệ thành Đà Nẵng
cho đến hôm nay, vẫn cùng một dòng và chưa hề gián đoạn.
Nhân dịp tháng Tư năm 2017, người viết xin phân tích một số định
nghĩa về nội dung của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Bài này tổng hợp
một số bài ngắn của người viết đã phổ biến trên Facebook trước đây.
Chiến tranh Việt Nam là Chiến tranh Ủy nhiệm (Proxy War)?
Chiến tranh ủy nhiệm (Proxy War) là cuộc chiến tranh mà các quốc
gia bên ngoài, thường là cường quốc, không tham gia trực tiếp cuộc
chiến nhưng qua hình thức cung cấp võ khí, tài chánh cho các phe
cánh, lực lượng trong quốc gia đó đánh nhau vì quyền lợi riêng của
các phe nhóm này nhưng cũng tương hợp với quyền lợi của nước bên
ngoài.
Chiến tranh đang diễn ra tại Syria thường được báo chí gọi là chiến
tranh ủy nhiệm. Mỹ, Nga, Iran, Thổ, Anh, Pháp, Saudi Arabia và
Qatar góp phần tàn phá Syria khi yểm trợ cho các phe nhóm, nhiều
khi bất cần hành vi khủng bố của các phe nhóm này, để tranh giành
ảnh hưởng và tài nguyên của vùng Trung Đông.
Không ít báo chí quốc tế và nhà nghiên cứu Chiến tranh Lạnh gọi
chiến tranh Việt Nam trước khi Mỹ đổ bộ vào tháng Năm, 1965, là
chiến tranh ủy nhiệm, trong đó Trung Cộng, Liên Xô một bên, Mỹ và
đồng minh một bên.
Định nghĩa chiến tranh Việt Nam là chiến tranh ủy nhiệm chỉ đúng
khi nhìn cuộc chiến từ quan điểm đế quốc dù là Mỹ, Liên Xô hay
Trung Cộng chứ không phải từ vết thương, từ vị trí của nạn nhân
buộc phải chiến đấu để sống còn như dân và quân miền Nam Việt Nam.
Như có lần người viết dẫn chứng, một người lính nghĩa quân gác
chiếc cầu ở đầu làng để mấy anh du kích khỏi về giựt sập cũng là
một biểu hiện hùng hồn của lý tưởng tự do và chủ quyền. Chiếc cầu
là huyết mạch kinh tế của làng, là trục giao thông chính của làng,
là vẻ đẹp của làng, và bảo vệ chiếc cầu là nhiệm vụ sống còn mà
người lính nghĩa quân phải làm cho bằng được.
Không ai “ủy nhiệm” anh lính Nghĩa Quân cả. Anh không bảo vệ chiếc
cầu giùm cho Mỹ mà cho chính anh và bà con trong thôn xóm của anh.
Lý tưởng tự do của một dân tộc dù thiêng liêng to lớn bao nhiêu
cũng bắt nguồn từ những hình ảnh nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa đó.
Trong phần lớn chiều dài của cuộc chiến, quyền lợi của Mỹ ở Đông
Nam Á và quyền lợi của VNCH tương hợp. VNCH đã nhận hầu hết viện
trợ quân sự của Mỹ kể cả nhân lực nhưng không đánh thuê cho Mỹ như
CS tuyên truyền.
Sau Thông Cáo Chung Thượng Hải năm 1972 và Hiệp Định Paris năm
1973, chính sách của Mỹ tại Đông Nam Á thay đổi, quyền lợi VNCH và
Mỹ do đó không còn tương hợp nữa. Mỹ rút quân và cắt giảm viện trợ
quân sự quá chênh lệch so với nguồn viện trợ quân sự CSVN nhận từ
Liên Xô, Trung Cộng và phong trào CS Quốc Tế.
Cho dù cạn kiệt nguồn cung cấp, quân và dân VNCH vẫn chiến đấu và
hy sinh cho tự do của họ, không phải chỉ sau Hiệp định Paris 1973,
không phải đến ngày 30-4-1975 mà cả sau 30-4-1975, hôm nay và cho đến khi chế độ CS còn hiện diện tại Việt Nam.
Chiến tranh Việt Nam là Nội chiến (Civil War)?
Nhiều người chỉ nhìn vào mái tóc, màu da, khuôn mặt, chủng tộc,
dòng máu và kết luận chiến tranh Việt Nam là nội chiến. Thật ra,
mái tóc, màu da, khuôn mặt, dòng máu chỉ là hình thức.
Thế nào là nội chiến?
Theo các định nghĩa chính trị học, Nội chiến (Civil War) là cuộc
chiến tranh giữa hai thành phần có tổ chức trong cùng một quốc gia
vốn trước đó thống nhất, mục đích của một bên là chiếm đoạt bên kia
để hoàn thành ý định chinh phục lãnh thổ hay thay đổi chính sách
nhưng không thay đổi thể chế.
Theo định nghĩa này, chiến tranh Nam-Bắc Mỹ là nội chiến, hoặc xung
đột võ trang giữa chính phủ da trắng và Nghị Hội Toàn Quốc Nam Phi
(African National Congress) gọi tắt là ANC chống chính sách Phân
biệt Chủng tộc tại Nam Phi là nội chiến.
Bắc Mỹ dưới sự lãnh đạo của TT Abraham Lincoln thắng cuộc nội chiến
Mỹ nhưng chỉ thay đổi chính sách nô lệ, trong lúc cơ chế chính trị
và chính phủ cấp tiểu bang gần như không thay đổi nhiều.
Tại Nam Phi cũng vậy. Sau cuộc đấu tranh dài dưới nhiều hình thức,
cuối cùng ANC đã thắng nhưng cũng chỉ hủy bỏ chính sách Phân Biệt
Chủng Tộc (Apartheid) tại Nam Phi nhưng không xóa bỏ chế độ Cộng
Hòa hay nền kinh tế thị trường. Không chỉ cựu Tổng thống de Klerk
trở thành cố vấn của TT Nelson Madela mà nhiều viên chức trong
chính phủ của de Klerk, các tư lịnh quân binh chủng, lực lượng cảnh
sát quốc gia đều tiếp tục nhiệm vụ của họ.
Sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam Cộng Hòa không có ý định chiếm
đoạt lãnh thổ miền Bắc hay lật đổ cơ chế CS miền Bắc. Chính phủ và
nhân dân VNCH hoàn toàn không muốn chiến tranh. Sau một trăm năm
chịu đựng không biết bao nhiêu đau khổ dưới ách thực dân, mục đích
trước mắt của nhân dân miền Nam là có được cơm no, áo ấm, có được
cuộc sống tự do và xây dựng miền Nam thành một nước cộng hòa hiện
đại.
Giấc mơ tươi đẹp của nhân dân miền Nam đã bị ý thức hệ CS với vũ
khí của Liên Xô, Trung Cộng tàn phá vào buổi sáng 30-4-1975.
Sau khi VNCH bị cưỡng chiếm, đảng CSVN không phải chỉ thay đổi về
chính sách như trường hợp Mỹ hay Nam Phi mà thay đổi toàn bộ cơ
chế. Nói theo lý luận CS đó là sự thay đổi tận gốc rễ từ thượng
tầng kiến trúc chính trị đến hạ tầng cơ sở kinh tế bằng các phương
pháp dã man không thua kém Mao, Stalin.
Do đó, gọi chiến tranh Việt Nam là nội chiến chỉ đúng về hình thức,
nội dung vẫn là chiến tranh của các chính phủ và nhân dân miền Nam
chống ý thức hệ CS xâm lược.
Chiến tranh Việt Nam là “Chiến tranh chống Mỹ Cứu Nước”?
Stalin, trong buổi họp với Mao và Hồ Chí Minh tại Moscow giữa tháng
Hai, 1950 đã phó thác sinh mạng CSVN vào tay Trung Cộng. Theo
William J. Duiker trong Ho Chi Minh: A Life, Stalin nói với Hồ Chí
Minh tại Moscow “Từ bây giờ về sau, các đồng chí có thể tin tưởng vào sự giúp đỡ
của Liên Xô, đặc biệt hiện nay sau thời kỳ chiến tranh, thặng dư
của chúng tôi còn rất nhiều, và chúng tôi sẽ chuyển đến các đồng
chí qua ngả Trung Quốc. Tuy nhiên vì điều kiện thiên nhiên, chính
yếu vẫn là Trung Quốc sẽ giúp đỡ các đồng chí. Những gì Trung Quốc
thiếu chúng tôi sẽ cung cấp.” Sau đó tới phiên Mao, y cũng lần nữa
xác định với Hồ “Bất cứ những gì Trung Quốc có mà Viêt Nam cần,
chúng tôi sẽ cung cấp.”
Theo Trương Quảng Hoa trong Hồi ký của những người trong cuộc, Hồ
Chí Minh thưa với Mao trên xe lửa từ Liên Xô về Trung Cộng “Mao Chủ
tịch, Stalin không chuẩn bị viện trợ trực tiếp cho chúng tôi, cũng
không ký hiệp ước với chúng tôi, cuộc chiến tranh chống Pháp từ nay
về sau chỉ có thể dựa vào viện trợ của Trung Quốc.”
CSVN hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Cộng, không chỉ phương tiện chiến
tranh, kinh tế, quốc phòng, hệ ý thức, cơ sở lý luận mà cả cách
nói, cách ăn mặc, cách chào hỏi.
Sau xung đột Eo Biển Đài Loan, và trầm trọng hơn, sau chiến tranh
Triều Tiên với gần 400 ngàn quân Trung Cộng bị giết, trong số đó có
Mao Ngạn Anh (Mao Anying), con trai trưởng và gần gũi nhất của Mao,
từ đó kẻ thù lớn nhất của Mao Trạch Đông là Mỹ. Mao chỉ thị toàn bộ
bộ máy tuyên truyền tại Trung Cộng phải chống Mỹ bằng mọi giá.
Chống Mỹ từ xa, chống Mỹ ở gần, chống Mỹ trong lý luận, chống Mỹ
trong thực tế, chống Mỹ khi có mặt Mỹ và chống Mỹ khi không có mặt
Mỹ.
Tuân lệnh Mao, trong Hội nghị Lần thứ Sáu của Trung ương Đảng CSVN
từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và Bộ chính trị
đảng CSVN đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ
thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính
và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều
nhằm chống đế quốc Mỹ.”
Khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” được thai nghén từ quan điểm và thời
điểm này.
Nhưng “nước” trong khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” phải hiểu là nước
Tàu chứ không phải nước Việt, lý do trong thời điểm này chưa có một
người lính hay một cố vấn Mỹ nào ở Việt Nam. Hôm đó, ngay cả Hiệp
định Geneva 1954 cũng còn chưa ký.
Với chỉ thị của Mao và kiên trì với mục đích CS hóa Việt Nam đề ra
từ 1930, vào tháng 5, 1959, Ban Chấp hành Trung ương đảng Lao Động
sau khi biết rằng việc chiếm miền Nam bằng phương tiện chính trị
không thành, đã quyết định đánh chiếm miền Nam bằng võ lực dù phải
“đốt cháy cả dãy Trường Sơn” như Hồ Chí Minh đã nói. Gần hết đồng
bào miền Bắc bị đảng lừa vào cuộc chiến “giải phóng dân tộc” và
hàng triệu người đã uống phải viên thuốc độc bọc đường “chống Mỹ
cứu nước” nên bỏ thây trên khắp hai miền.
Lý luận chính phủ VNCH không thực thi “thống nhất đất nước” theo
tinh thần Hiệp định Geneva chỉ là cái cớ tuyên truyền.
Thực tế chính trị thế giới của giai đoạn sau Thế Chiến thứ Hai là
thực tế phân cực và sự chọn lựa của thời đại là chọn lựa giữa ý
thức hệ Quốc gia và Cộng sản. Không chỉ các quốc gia bị phân chia
như Nam Hàn, Tây Đức mà cả các quốc gia không bị phân chia như Hy
Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ v.v… cũng chọn thế đứng dân chủ Tây Phương để làm
bàn đạp phát triển đất nước.
Giả sử, nếu có bầu cử để “thống nhất đất nước” và đảng CS thua,
liệu họ sẽ giải nhiệm các cấp chính trị viên và sáp nhập vào quân
đội quốc gia, giải tán bộ máy công an chìm nổi, đóng cửa các cơ
quan tuyên truyền, từ chức khỏi tất cả chức vụ điều hành đất nước?
Trừ phi mặt trời mọc ở hướng tây và lặn ở hướng đông điều đó không
bao giờ xảy ra.
“Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng…”
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng…”
Câu ca dao quen thuộc mà ai cũng biết. Đó là chưa kể đến mây xám,
mây đen, mây hồng, mây tím trong thơ và nhạc. Nhưng mây màu gì? Mây
thực sự chỉ là màu trắng. Màu mây thay đổi do ánh nắng mặt trời tùy
theo mỗi khoảnh khắc trong ngày.
Cuộc chiến Việt Nam cũng vậy. Tên gọi của cuộc chiến khác nhau tùy
theo quan điểm, góc nhìn, quyền lợi và mục đích, nhưng với nhân dân
miền Nam Việt Nam, đó chỉ là cuộc chiến tự vệ của những người Việt
yêu tự do dân chủ chống lại ý thức hệ CS độc tài toàn trị xâm lược.
Không thấy rõ bản chất xâm lược của ý thức hệ CS sẽ khó có thể chọn
con đường đúng để phục hưng Việt Nam.
Trần Trung Đạo
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen