“…Họ tìm mọi cách, mọi lúc để “đá” dân từ cơ quan này sang cơ quan
khác, và biến dân như những trái banh để họ làm tiền. Thực dân Pháp
ngày xưa có lẽ cũng không hành dân như cán bộ Nhà nước ngày nay…”
Tôi vừa có một chuyến đi gần 1 tháng ở bên nhà. Đó là một thời gian
tương đối dài đối với tôi, một phần là vì công việc, và một phần
khác là nghỉ hè. Chính vì hai việc này mà tôi có dịp đi đây đó, và
có dịp quan sát quê hương — không phải từ phòng máy lạnh, mà từ
thực địa. Tôi e rằng những quan sát và cảm nhận của tôi hơi bi
quan. Thú thật, tôi không thấy một Việt Nam sẽ “tươi sáng”, mà chỉ
thấy một đất nước sẽ tiếp tục tụt hậu và lệ thuộc, nhất là trong
bối cảnh cộng đồng kinh tế ASEAN.
1. Một đất nước trên đà suy thoái
Cái ấn tượng chung và bao quát trong chuyến về thăm quê là đất nước
này đang trên đà suy thoái hầu như về mọi mặt. Mặc cho những con số
thống kê kinh tế màu hồng được tô vẽ bởi Nhà nước, trong thực tế
thì cuộc sống của người dân càng ngày càng khó hơn. Hơn 70% dân số
là nông dân hay sống ở miệt quê, nên chúng ta thử xem qua cuộc sống
của một gia đình nông dân tiêu biểu, gồm vợ, chồng và 2 con. Gia
đình này làm ra gạo để các tập đoàn Nhà nước đem đi xuất khẩu lấy
ngoại tệ (và chia chác?) nhưng số tiền mà họ để dành thì chẳng bao
nhiêu. Gia đình này có thể có 5 công đất (hoặc cao lắm là 10 công
đất), sau một năm quần quật làm việc “bán mặt cho đất, bán lưng cho
trời”, cả nhà chỉ để dành khoảng 10-15 triệu đồng, có khi còn không
bằng một bữa nhậu của các quan chức.
Cuộc sống của người nông dân là nợ triền miên. Đầu mùa thì vay ngân
hàng để mua giống, mua phân, mua thuốc trừ sâu; thu hoạch xong thì
phải trả nợ cộng tiền lời cho ngân hàng. Rồi đến mùa vụ kế tiếp thì
cái vòng vay – trả nợ lại bắt đầu. Con của người nông dân đi học,
thì mỗi đứa phải gánh ít nhất là 10 loại phí khác nhau, có khi lên
đến 20 phí! Các trường, các uỷ ban nhân dân, các cơ quan công
quyền, v.v. đua nhau sáng chế ra những loại phí để moi móc túi tiền
người dân vốn đã quá ít ỏi. Họ không cần biết người dân có tiền hay
không, phí là phí, và phải đóng phí. Không ít gia đình không có
tiền đóng phí nên cho con nghỉ học. Đã có tình trạng người dân
không đủ tiền trả viện phí nên tìm đến con đường tự tử.
Môi trường sống xuống cấp thê thảm. Sự gia tăng dân số gây áp lực
cực kì lớn đến môi sinh. Mật độ dân số tăng nhanh, ngay cả ở vùng
nông thôn. Có thể nói rằng hầu hết các con sông ở VN đang chết. Tất
tần tật, kể cả heo gà và có khi cả người chết, cũng bị vứt xuống
sông. Những con sông VN đang chết vì chúng đã biến thành những bãi
rác di động khổng lồ. Đó là chưa nói đến sự xâm nhập của nước mặn
vào các con sông vùng Đồng bằng sông Cửu Long, một phần là do mấy
cái đập lớn Tàu xây trên thượng nguồn của sông. Tôi cho rằng sự suy
thoái về môi trường là mối đe doạ lớn nhất đến sự tồn vong của đất
nước.
Ở đất nước này, chính quyền đã mắc cái bệnh vô cảm quá lâu, và bệnh
đã trở thành mãn tính, rất khó cứu chữa. Cái bệnh vô cảm của chính
quyền nó còn lan truyền sang cả xã hội, mà trong đó mọi người dùng
mọi phương cách và thủ đoạn để tranh nhau ngoi lên mặt đất mà sống.
Có thể nói cả xã hội đang chạy đua. Cái chữ “chạy” ở VN đã có một ý
nghĩa khác. Dân chạy để đưa con cái vào đại học, vào cơ quan Nhà
nước để hi vọng đổi đời. Quan chức cũng chạy đua vào các chức vụ
trong guồng máy công quyền, và họ chạy bằng tiền. Tiền dĩ nhiên là
từ dân. Thành ra, cuối cùng thì người dân lãnh đủ. Sự suy thoái ở
VN diễn ra trên mọi mặt, từ kinh tế, môi trường, y tế, giáo dục,
đến đạo đức xã hội.
2. Đất nước đang bị “bán”
Một anh bạn tôi vốn là một doanh nhân (businessman) thành đạt cứ
mỗi lần gặp tôi là than thở rằng đất nước này đang bị bán dần cho
người nước ngoài. Mà, đúng là như thế thật. Ở khắp nơi, từ Đà Nẵng,
đến Nha Trang, tận Phú Quốc, người ta “qui hoạch” đất để bán cho
các tập đoàn nước ngoài xây resort, khách sạn, căn hộ cao cấp. Một
trong những “ông chủ” mới thừa tiền để mua tất cả của Việt Nam là
người Tàu lục địa.
Chẳng những đất đai được bán, các thương hiệu của VN cũng dần dần
bị các tập đoàn kinh tế nước ngoài thu tóm và kiểm soát. Chẳng hạn
như các tập đoàn Thái Lan đã thu tóm những thương hiệu bán lẻ và
hàng điện tử của Việt Nam. Tuy nhiên, người dân có vẻ “ok” khi
người Thái kiểm soát các cửa hàng này, vì dù sao thì người Thái đem
hàng của họ sang còn có phẩm chất tốt và đáng tin cậy hơn là hàng
hoá độc hại của Tàu cộng.
Đó là chưa kể một loại buôn bán khác: buôn bán phụ nữ. Phụ nữ Việt
Nam được quảng cáo ở các nước như Tàu, Đài Loan, Singapore và Đại
Hàn. Chưa bao giờ người Việt Nam chịu nhục khi con gái VN được cho
đứng trong lồng kiếng như là những món hàng để người ta qua lại
ngắm nghía và trả giá! Thử hỏi, có người Việt Nam nào tự hào được
khi đồng hương mình bị đem ra rao bán như thế. Xin đừng nói đó là
những trường hợp cá biệt; đó là tín hiệu cho thấy một đất nước đang
bị suy thoái về đạo đức xã hội.
3. Tham nhũng tràn lan
Không cần phải nhờ đến tổ chức minh bạch quốc tế chúng ta mới biết
Việt Nam là một trong những nước tham nhũng nhất thế giới. Chỉ cần
tiếp xúc với hải quan, hay bất cứ cơ quan công quyền nào, người dân
đều có thể nếm “mùi tham nhũng”. Tham nhũng từ dưới lên trên, từ
bên này sang bên kia, từ cấp thấp đến cấp cao. Có khi tham nhũng
công khai, và kẻ vòi tiền mặc cả cái giá mà không hề xấu hổ. Các cơ
quan Nhà nước phải hối lộ các cơ quan Nhà nước khác, và họ xem đó
là bình thường. Ngay cả những ngành dịch vụ tưởng như là “trí thức”
như giáo dục và y tế mà cũng tham nhũng, và vì họ có học nên tham
nhũng ở hai ngành này còn “tinh tế” hơn các ngành khác!
Có thể nói là tham nhũng (và hối lộ) đã trở thành một thứ văn hoá.
Cái văn hoá này nó ăn sâu vào não trạng của cán bộ Nhà nước. Đã là
văn hoá thì nó rất khó xoá bỏ một sớm một chiều. Ngay cả ông tổng
Phú Trọng còn thú nhận rằng trạng tham nhũng như “ghẻ ruồi, rất
ngứa ngáy, khó chịu”, nhưng cho đến nay ông cũng không làm được cái
gì để giảm tình trạng này.
4. Xã hội bất an
Có thể nói không ngoa rằng Việt Nam là một xã hội bất an. Đọc báo
hàng ngày thấy tin tức về tội phạm dày đặc khắp nơi. Chẳng những sự
phổ biến của tội phạm, mà sự manh động của các vụ án càng ngày càng
táo tợn. Chưa nơi nào có những vụ giết người vô cớ như ở Việt Nam:
chỉ một cái nhìn cũng có thể dẫn đến cái chết!
Đáng ngại nhất là tội phạm đã lan tràn về tận vùng quê. Ở quê tôi,
nơi mà ngày xưa là một làng êm ả, ngày nay là một cộng đồng bất an
vì những vụ chém giết xảy ra hầu như hàng tuần! Người dân dưới quê
cảm thấy mệt mỏi, không muốn nuôi trồng gì nữa, vì nạn trộm cắp
hoành hành triền miên. Nuôi cá chưa đủ lớn thì đã bị trộm câu mất.
Trồng một cây mít, trái chưa chín thì đã có trộm hái dùm. Chưa bao
giờ tình trạng trộm cắp phổ biến như hiện nay ở vùng nông thôn.
Đó là chưa nói đến tai nạn giao thông vốn còn kinh hoàng hơn cả
trộm cắp. Ở VN, bước ra đường là chấp nhận rủi ro tai nạn, thậm chí
chết vì sự hỗn loạn của hệ thống giao thông. Thật vậy, tai nạn giao
thông ở VN đã và đang trở thành nỗi kinh hoàng của không chỉ người
dân địa phương mà còn ở du khách.
Một dạng bất an khác là (mất) an toàn thực phẩm. Có thể nói rằng
đây là vấn đề làm cho cả dân số quan tâm nhất (theo như kết quả của
một cuộc điều tra xã hội chỉ ra). Đi đến đâu, ở bất cứ thời điểm
nào, người ta cũng nói đến những loại hàng hoá độc hại được tuồn
vào thị trường Việt Nam từ một cái nguồn quen thuộc: Tàu cộng. Ngay
cả ở dưới quê tôi, người dân còn không dám mua trái cây có xuất xứ
từ Tàu. Không có một nông sản nào của Tàu sản xuất được xem là an
toàn. Ngày nay, ngay cả các bợm nhậu cũng e dè những món ăn ở nhà
hàng, quán nhậu, vì không ai dám chắc đó là hàng hoá của VN hay của
Tàu. Nhưng điều đáng buồn nhất là sự tiếp tay của các doanh nghiệp
Việt Nam để cho hàng hoá Tàu hoành hành đất nước ta và dân tộc ta.
Thật không ngoa khi gọi những doanh nghiệp này là “gian thương”.
Cũng không ngoa để nói rằng gian thương cấu kết với những cán bộ
tham nhũng đang giết chết kinh tế nước nhà và người dân.
5. Trí thức không có tiếng nói, không có phản biện
Theo dõi báo chí ở Việt Nam, dễ dàng thấy sự trống vắng tiếng nói
của giới trí thức. Trước một sự kiện tương đối quan trọng như đại
hội đảng csvn, mà không hề có bất cứ một bình luận độc lập nào,
không hề có một bài phân tích về các nhân vật chóp bu trong đảng,
hoàn toàn không có một phát biểu mang tính viễn kiến của bất cứ một
nhân vật “lãnh đạo” tương lai nào! Thay vào đó là những tiếng nói
của những người mang danh “sư sĩ” nhưng cách họ nói và ngôn ngữ của
họ thì chẳng khác sự “cò mồi” là bao nhiêu.
Trước hiện tình đất nước, giới có học nói chung có vẻ lãnh đạm. Họ
không quan tâm. Họ thường chạy trốn thực tế bằng cách biện minh
rằng “chỉ lo việc chuyên môn”. Thật ra, cũng khó trách họ, vì nếu
họ nói ra những ý kiến thì có thể sẽ bị phạt nặng nề, thậm chí tù
đày. Ngay cả yêu nước là một tình cảm thiêng liêng mà cũng phải
được tổ chức và … cho phép. Một xã hội đối xử với giới trí thức như
thế thì làm sao bền vững được.
6. Guồng máy quản lí bất tài
Thật ra, sự bất tài của quan chức Nhà nước không còn gì là bí mật.
Vì bất tài, nên họ thường “sản xuất” ra những qui định hài hước, và
có khi cực kì vô lí và phi khoa học. Chúng ta còn nhớ trước đây, họ
cho ra qui định mang danh “ngực nở chân dài” để được lái xe ô-tô,
gây ra một trận cười cấp quốc gia. Tưởng như thế đã là hi hữu, ai
ngờ họ lạ tái xuất với một qui định “trời ơi”: Xe ô-tô 4 bánh phải
có bình chữa cháy. Qui định này làm trò cười cho cả thế giới và các
hãng sản xuất xe hơi. Tưởng qui định như thế đã là vô lí, họ còn
cho ra một qui định “trên trời” như xe trên 10 chỗ ngồi phải có
găng tay và khẩu trang lọc độc!
7. Tuy bất tài, nhưng guồng máy đó rất giỏi trong việc hành dân
Sự hành dân của guồng máy quản lí & hành chính của Việt Nam
phải nói là vô song trên thế giới. Đối với người dân, có việc đến
cổng công đường là một nỗi sợ, một cơn ác mộng. Hầu như không có
một việc gì, từ nhỏ đến lớn, mà trôi chảy lần đầu khi đến gặp các
quan chức Nhà nước. Tôi về quê và nghe nhiều câu chuyện hành dân mà
nói theo tiếng Anh là “incredible” — không thể tin được. Chỉ cần
cái họ viết sai dấu (như “Nguyển” thay vì “Nguyễn”) là cũng bị hành
và tốn tiền triệu! Những lỗi sai chính tả đó là của họ (quan chức,
cán bộ), nhưng họ vẫn hành dân một cách vô tư. Họ tìm mọi cách, mọi
lúc để “đá” dân từ cơ quan này sang cơ quan khác, và biến dân như
những trái banh để họ làm tiền. Thực dân Pháp ngày xưa có lẽ cũng
không hành dân như cán bộ Nhà nước ngày nay.
Năm 2016 này Việt Nam sẽ tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN (ASEAN
Economic Community hay AEC). Mục tiêu là hình thành một cộng đồng
kinh tế có khả năng cạnh tranh cao, hàng hoá và dịch vụ, đầu tư sẽ
tự do lưu chuyển giữa các nước thành viên. Tôi ghé thăm một đại học
lớn ở Thái Lan vào năm 2013, và giới trí thức bên đó đã bàn rất
nhiều về viễn cảnh này, họ tư vấn cho chính phủ để chuẩn bị hoà
nhập vào AEC. Nhưng ngạc nhiên thay, ở Việt Nam rất ít thảo luận về
AEC và những tác động của nó đến cuộc sống của người dân! Nhưng với
tình trạng suy thoái, đất nước bị “bán”, tham nhũng tràn lan, xã
hội bất an, trí thức không có tiếng nói, guồng máy quản lí bất tài
nhưng giỏi hành dân, thì không nói ra, chúng ta cũng biết là khả
năng cạnh tranh của Việt Nam không cao trong AEC. Khả năng cạnh
tranh không cao rất có thể dẫn đến nguy cơ lệ thuộc.
Nguyễn Văn Tuấn
Nguồn: facebook.com/drtuanvnguyen
Nguồn: facebook.com/drtuanvnguyen
Bài này đã được đăng trong Chimbaobaovn. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen