Trong
buổi tiếp xúc với cử tri tại Sài Gòn ngày 26 tháng 6, 2014, ông Chủ
Tịch Nước Trương Tấn Sang đã có những câu phát biểu được báo chí trích
dẫn, về vấn đề mà người dân quan tâm nhất hiện nay là tình hình biển
Ðông và mối quan hệ với Trung Quốc.
Chỉ
cần đọc/nghe qua những phát biểu này của một trong bốn nhân vật đứng
đầu bộ máy đảng và nhà nước cộng sản, người ta cũng có thể nhận ra quá
nhiều điều không ổn trong quan điểm, tư duy, não trạng của các lãnh đạo
Việt Nam. Từ đó dẫn đến cách hành xử lúng túng, bị động, bạc nhược của
họ
trước Bắc Kinh bao lâu nay.
Chủ Tịch Nước CSVN Trương Tấn Sang “trao đổi” với cử tri khi tiếp xúc ở Sài Gòn sáng 26 tháng 6, 2014. (Hình: Tuổi Trẻ)
Chẳng
hạn, khi nói về công hàm Phạm Văn Ðồng năm 1958, “Chủ Tịch Trương Tấn
Sang nhấn mạnh: ‘Ông Phạm Văn Ðồng (cố thủ tướng) có bao giờ nói Hoàng
Sa, Trường Sa là của Trung Quốc đâu, đã đăng công khai trên mạng
hết rồi.’” (“Chủ tịch nước Trương Tấn Sang:
Phải giữ bằng được chủ quyền,” báo Tuổi Trẻ).
Ðây
là lập luận chống chế quen thuộc của nhà cầm quyền Việt Nam sau khi vụ
công hàm của Phạm Văn Ðồng bị công khai trước nhân dân Việt Nam và quốc
tế. Về việc này, Giáo Sư Nguyễn Văn Tuấn viết trên facebook:
“Ông Phạm Văn Ðồng không nói Hoàng Sa-Trường Sa là của Tàu?
...Ðúng
là công hàm PVÐ không đề cập cụ thể đến Hoàng Sa và Trường Sa là của
Tàu. Nhưng ông tán thành tuyên bố của Tàu rằng Hoang Sa-Trường Sa là của
Tàu. Trong công hàm đó câu đầu tiên viết rằng:
“Chúng
tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9,
1958 của chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa quyết
định về hải phận của Trung Quốc.”
Vậy
thì tuyên bố 4 tháng 9, 1958 của Tàu là gì? Trên mạng vẫn còn lưu hành
bản tiếng Hoa và một bản dịch tuyên bố 4 tháng 9, 1958. Tuyên bố có đoạn
viết:
“Bề
rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Ðiều
lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao
gồm phần đất Trung
Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi
đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ
cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung
Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.”
Như
vậy trong tuyên bố trên Tàu cộng họ nói rõ rằng Hoàng Sa-Trường Sa là
của họ (hay theo cách gọi Tây Sa-Nam Sa của Tàu). Chính phủ Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa tôn trọng và tán thành Tuyên bố đó thì cũng có nghĩa là
tán thành và công nhận Hoàng Sa-Trường Sa là của Tàu rồi. Khó nói cách
khác được.”
Không
chỉ các ông lãnh đạo mà nhiều người dân, nhất là đám dư luận viên trên
mạng cũng lập luận tương tự để “chạy tội” cho cái công hàm tai hại,
nhưng phải thấy rằng trước quốc tế mà cứ cố cãi như thế này thì không
thể thắng được Trung Cộng về lý.
Nói
về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc: “Trước việc Trung Quốc lấy cớ từng giúp
Việt Nam trong quá khứ để gây hấn ở biển Ðông, Chủ Tịch Nước Trương Tấn
Sang khẳng định, Việt Nam mang ơn thì có cách trả ơn, chứ Trung Quốc
không được áp đặt.” (“Việt Nam mang ơn thì sẽ
trả, nhưng Trung Quốc không được
áp đặt,” Dân Trí).
Bao
lâu nay, phía Trung Cộng tất nhiên là thường xuyên nhắc đi nhắc lại
việc đã từng giúp đỡ Bắc Việt “đánh Pháp đuổi Mỹ,” lấy đó làm cớ để mắng
mỏ Việt Nam vô ơn mỗi khi quan hệ giữa hai đảng cộng sản trở nên xấu
đi.
Nhưng không chỉ Trung Cộng, từ các thế hệ lãnh đạo cho tới nhiều tướng tá, quan chức khác nhau của đảng cộng
sản Việt Nam cũng liên tục nhắc nhở... chính họ và
người dân Việt Nam, phải biết ơn Trung Quốc.
Người dân Việt Nam hoàn toàn có quyền hỏi lại đảng và nhà nước cộng sản rằng hãy nói rõ ràng và sòng phẳng một lần, ai nợ ai.
Chỉ
có đảng Cộng Sản Việt Nam nợ đảng Cộng Sản Trung Quốc để có đủ sức tiến
hành hai cuộc chiến, trong đó cuộc chiến tranh “chống Mỹ cứu nước” thực
chất là cuộc chiến tranh ý
thức hệ, là cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn
giữa hai miền Nam Bắc. Ðối với đa số người Việt Nam, đó là một cuộc
chiến không mong muốn, vậy tại sao người dân Việt Nam phải mang nợ Trung
Quốc.
Những
thông tin, tư liệu được bạch hóa phần nào trong những năm qua đã nói
lên tính chất phi lý, vô nghĩa, cái giá quá đắt phải trả cũng như những
hệ lụy nặng nề cho đất nước, dân tộc Việt Nam từ việc đảng cộng sản chấp
nhận sự viện trợ từ Trung Cộng để đổi lấy việc tiến chiếm miền Nam,
thống nhất đất nước nhưng lại bị lệ thuộc lâu dài vào Bắc Kinh về mọi
mặt.
Và
họ đã phải trả món nợ này không chỉ bằng hàng núi xương máu của nhân
dân mà cả tài nguyên, những sự ưu tiên trong lĩnh vực kinh tế cho tới
một phần lãnh thổ lãnh hải.
Những
thông tin, tư liệu đó cũng cho thấy cuộc chiến chống Mỹ của Bắc Việt
thật ra có lợi cho chính Trung Cộng như thế nào, đảng Cộng Sản Trung
Quốc lẽ ra phải cảm ơn sự mù quáng của đảng Cộng Sản
Việt Nam thì đúng hơn.
Nhưng
đó là quan hệ mắc mứu giữa hai đảng, nhân dân Việt Nam chả dự phần gì
vào để mà cứ phải mang ơn, biết ơn. Về phía những người cộng sản, chính
cái tâm lý mắc nợ, mang ơn này đã khiến họ luôn luôn ở vào thế yếu khi
phải đương đầu với Trung Cộng để bảo vệ độc lập chủ quyền và sự vẹn toàn
lãnh thổ.
Tự trói buộc mình vào sự tương đồng về mặt ý thức hệ, mặc dù ai cũng rõ cho đến thời điểm này thì cả
Trung Quốc lẫn Việt Nam đều không còn là hai
đảng cộng sản đúng nghĩa và cũng chả bên nào còn thực lòng tin vào chủ nghĩa cộng sản, lý thuyết Marxism-Leninism nữa.
Tiếp
đến tự trói buộc mình vào mối ân oán nợ nần, quan hệ 4 tốt 16 chữ vàng
giữa hai đảng cộng sản, trong khi trên thực tế, Bắc Kinh từ lâu đã không
coi mối quan hệ hai bên ra cái gì. Và bây giờ, là lần thứ hàng trăm
hàng ngàn, Trung Cộng đang công khai xâm lược Việt Nam, thách thức, lăng
nhục nhà cầm quyền Việt Nam.
Chừng
nào các lãnh đạo, quan chức cộng sản ở Việt Nam tự mình rũ bỏ được cái
tâm lý mắc nợ ấy trong mối quan hệ với Bắc Kinh thì họ mới có đủ sáng
suốt và sức mạnh để đi cùng một con đường với nhân dân và với thời đại:
Thoát Cộng, thoát Trung, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, cương quyết
giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng trông chờ ở nhà
cầm quyền Việt Nam điều đó thì khác nào hái sao trên trời!
Cuối cùng, trong
các phát biểu của ông chủ tịch nước, có một ý sau nói về việc bảo vệ chủ quyền:
“Năm
nay không xong thì năm tới, mười năm này không xong thì mười năm sau,
đời ta không xong thì đến đời con cháu, phải dứt khoát như vậy. Trước
sau như một, vấn đề chủ quyền là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, phải
giữ gìn.” (“Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang: Phải giữ bằng được chủ
quyền,” báo Tuổi Trẻ).
Trước
đó, tại cuộc đối thoại với các nhà khoa học Việt Nam sáng 17 tháng 5,
ông Phó Thủ Tướng Vũ Ðức Ðam đã nói: “Hoàng Sa là của Việt Nam. Trung
Quốc đã dùng vũ lực để chiếm Hoàng Sa và nhất định chúng ta phải đòi
lại. Ðời tôi, đời các bạn chưa đòi được thì con cháu chúng ta sẽ tiếp
tục đòi lại.” (“Nhất định phải đòi lại Hoàng Sa,” báo Thanh Niên).
Và nếu chú ý tìm kiếm thêm thì chúng ta
sẽ thấy không chỉ có hai nhân vật trên phát biểu những ý tương tự.
Nghe
thì có vẻ quyết tâm, đầy xúc động (!) nhưng thật ra nói như vậy có
nghĩa là các ông giương cờ trắng, chào thua giặc trước rồi và ủy thác
việc đòi lại Hoàng Sa cũng như bảo vệ chủ quyền cho... con cháu.
Các
ông
không sợ người dân rồi con cháu sau này và cả lịch sử nguyền rủa
muôn đời vì đã vay mượn các nước để tiêu xài cho đã đời này, mặt khác,
tài nguyên đất nước, đất đai, biển, đảo& có bao nhiêu khai thác
sạch, cho thuê hay bán sạch để ăn ngay đời này, còn nợ công cho tới việc
đòi lại lãnh thổ lãnh hải thì để cho con cháu gánh, hay sao?
Chỉ
qua một buổi nói chuyện của một trong tứ trụ triều đình của Việt Nam mà
đã bộc lộ bao nhiêu vấn đề trong quan điểm, tư duy của các lãnh đạo
Việt Nam, chả trách gì tình hình cứ ngày càng bi
đát, tuyệt vọng.
Việt
Nam có thể mất nước đến nơi mà nhà cầm quyền vẫn chưa tìm ra, và cũng
không thực tâm muốn tìm, con đường để thoát khỏi Trung Cộng, bảo vệ được
độc lập chủ quyền, giang sơn gấm vóc của non sông.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen