Phan Châu Thành (Danlambao) - Mọi
điều
cuối cùng đều dẫn đến một điểm đầu tiên: để bảo vệ lãnh thổ đất nước và
tương lai Việt Nam đầu tiên phải hạ bệ chính phủ CSVN trước hết và thay
bằng chính phủ dân chủ chính danh do toàn dân hơn 90 triệu người Việt
khắp năm châu bầu ra để đại diện họ thừa kế non sông đất nước, lãnh thổ
quốc gia mà dân tộc Việt Nam đã để lại cho đời sau, thì 90 triệu người
Việt mới có thể cùng nhau đòi lại Hoàng Sa và một phần Trường Sa, và ải
Nam Quan, thác Bản Giốc... từ tay Trung cộng mà CSVN đã cống nạp mới gần
đây.
*
Tuyên bố
ngày 04/9/1958 của CHNDTH
“1.
Chiều rộng lãnh hải của CHNDTH là 12 hải lý. Điều lệ này áp dụng cho
toàn lãnh thổ nước CHNDTH bao gồm phần đất Trung quốc trên đất liền và
các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ,
quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa và
các quần đảo khác thuộc Trung quốc.
2.
Các đường thẳng nối liền mỗi điểm cơ sở của bờ biển trên đất liền và
các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường cơ sở của lãnh hải
dọc theo đất liền Trung quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12
hải lý tính ra từ
các đường cơ sở là hải phận của Trung quốc. Phần biển kề trong các
đường cơ sở, kể cả vịnh Bôhai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của
Trung quốc. Các đảo bên trong các đường cơ sở, kể cả đảo Dongyin, đảo
Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaogin, đảo Đại và Tiểu Jinmen, đảo
Đadam, đảo Irdan và đảo Đongdinh, là các đảo thuộc nội hải của Trung
quốc.
3.
Nếu không có sự cho phép của Chính phủ CHNDTH tất cả máy bay ngoại quốc
và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung quốc và vùng trời
bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào di chuyển trong hải
phận Trung quốc đều phải tuân thủ các luật lệ liên hệ của Chính phủ
CHNDTH.
4.
Điều 2 và điều 3 trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận,
quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa,
quần đảo Nam Sa và các quần đảo khác thuộc Trung quốc.”
*Nhận xét:
Trung
quốc tuyên bố lãnh hải trên cơ sở một lãnh thổ tự nhận tự mở rộng bao
gồm luôn các đảo và quần đảo của nước khác (như Tây Sa - Hoàng Sa và Nam
Sa - Trường Sa của Việt Nam, Đông Sa - ... của Philippines...) hoặc còn
đang tranh chấp (như Đài Loan - với Trung Hoa Dân Quốc...), là
một hành động bành trướng
lãnh thổ thô bạo, không có cơ sở và vi phạm mọi điều luật quốc tế.
Vì
thế, tuyên bố hải phận 12 hải lý tính từ đường cơ sở của TQ dù có vẻ
rất rõ ràng và phù hợp thông lệ quốc tế, lại trở thành lố bịch, chỉ để
che đậy đường cơ sở mà Trung quốc vẽ ra trong tuyên bố ngày 4/9/1958 rất
mập mờ, tham lam phủ chùm vào lãnh thổ lãnh hải các nước khác, nên tất
nhiên không ai có thể chấp nhận.
Tóm
lại, tuy gọi là tuyên bố lãnh hải, nhưng thực chất đó là tuyên chiếm
lãnh thổ biển đảo nước khác của CHNDTH bằng đường cơ sở mập mờ mà nó vẽ
ra, sau này đã hiện nguyên hình là đường
lưỡi bò chin
khúc.
Thế mà...
Công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958 của VNDCCH
“Kính gửi: Đồng chí Chu Ân Lai
Tổng lý Quốc vụ viện nước CHNDTH
Kính thưa đồng chí Tổng lý,
Chính
phủ nước VNDCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày
4/9/1958 của Chính phủ nước CHNDTH, quyết định về
hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước VNDCCH tôn trọng quyết định ấy
và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng
hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước CHNDTH
trên mặt bể.
Phạm Văn Đồng
(đã ký và đóng dấu)
Thủ tường Chính phủ nước VNDCCH”
Công hàm trên được Đại sứ VNDCCH tại Bắc Kinh Nguyễn Khang trao cho Thứ trưởng Bộ Ngoại giao TQ - Cơ Bằng Phi ngày
21/9/1958.
*Nhận xét:
Chính
phủ VNDCCH của HCM và PVĐ đã nhanh chóng, dường như ngay lập tức, bằng
công văn ngoại giao cấp cao nhất (công hàm) qua con đường chính thức
nhất (Đại sứ và đại sứ quán) chấp nhận Tuyên bố “lãnh hải” của TQ một
cách trân trọng nhất: ghi nhận, tán thành và tôn trọng
“quyết định về lãnh hải” của TQ. Ngày 14 và 21/9/1958 lại là hai ngày
chủ nhật mà CSVN vẫn làm việc miệt mài thế - thể hiện tinh thần bán nước
của họ say mê như thế nào! Không biết có nước nào có văn bản, công hàm
công nhận Tuyên bố “tuyên chiếm lãnh thổ nước mình” của TQ nhanh
nhảu và tận tụy như VNDCCH hay không nhỉ? Chắc là
chỉ có Bắc TT, nếu có?
Chúng
ta hãy để ý sự phối hợp rất nhịp nhàng tương xứng giữa Tuyên bố
04/9/1958 của TQ và công hàm phúc đáp 14/9/1958 của VN như một cặp tung
hứng, cứ như chúng từ một người viết ra: TQ tuyên bố về lãnh hải để che
đậy tuyên chiếm lãnh thổ các nước khác và công hàm VN ngay lập tức ghi
nhận và tán thành tuyên bố về lãnh hải mà thực chất là xác nhận quyền
lãnh thổ của TQ đối với hai quần đảo HS và TS của chính mình!
Cho
đến nay, sự phối hợp ăn ý đó vẫn đang được tiếp tục trong việc hai bên
đều dùng công hàm PVĐ để làm cơ sở tạo ra tranh chấp biển giữa hai nước
trên vùng biển
vốn không hề có tranh chấp trước đó! Tức là họ vẫn dùng công hàm PVĐ để
biến không thành có.
CHXHCN Việt Nam “phủ định” hiệu lực pháp lý của Công hàm 1958
Hôm
23/5/2014, Chính phủ CHXHCN Việt Nam tuyên bố rằng công hàm của Chính
phủ VNDCCH do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958 phúc đáp Tuyên
bố của ngày 04/09/1958 Chính phủ CHNDTH trên là vô hiệu lực pháp lý, vì
vào thời điểm đó Chính phủ VNDCCH không quản lý các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa (Tây Sa và Nam Sa), mà là Chính phủ Việt Nam Cộng hòa (VNCH)!
Tức là, “VNDCCH không thể cho CHNDTH
cái mà mình không
có, không quản lý; hay: Người ta không thể từ bỏ cái mà người ta không
sở hữu”. Nhiều người cho rằng đó là lập luận thuyết phục!
Như
vậy, CP CHXHCN VN cho rằng việc chính mình (CP VNDCCH trước đó) ngày
14/9/1958 đã công nhận chủ quyền của TQ đối với các quần đảo HS và TS là
vô hiệu lực pháp lý.
Theo
tôi, CP CHXNCH VN lập luận và tuyên bố như trên để coi Công hàm PVĐ vô
hiệu lực là đánh tráo khái niệm một cách rất ấu trĩ và vì thế sai hoàn
toàn. Bởi vì, người ta hoàn toàn có thể từ bỏ quyền sở hữu cái mà
người ta không sở hữu bằng cách xác nhận cái đó thuộc quyền sở hữu của
người
khác. Và công hàm
PVĐ đã làm điều đó. Công hàm PVĐ đã xác nhận (ghi nhận và tán
thành) hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung quốc, bất kể lúc
đó chúng đang do ai quản lý.
Kết
quả tất nhiên là, Công hàm PVĐ trên của VNDCCH vẫn có hiệu lực cho đến
nay: xác nhận quyền sở hữu của TQ đối với HS và TS, tức là phủ nhận
quyền sở hữu của VN (hay bất cứ ai) đối với hai quần đảo và vùng biển
đó.
Chính
phủ VN có biết rằng việc họ phủ nhận công hàm PVĐ của họ như thế là hề
và vô ích không? Tôi tin là họ biết, TQ càng biết rõ, vì thế họ mới để
cho một cán bộ cấp thấp như thế nói ra điều đó.
Còn nếu điều
đó thực sự đúng và có hiệu quả, sẽ giúp VN đòi được HS, TS từ tay TQ
thì mấy kẻ “tứ trụ” điếm, nhất là 3X, sẽ giành nói ngay nói lớn để ghi
công lớn cho mình rồi. Một công lớn cỡ đó đủ để 3X ngồi ghế CTN và TBT
như Tập hay Tổng thống như Putin trong 10 năm nữa chứ bỡn?
Biết
vậy tại sao họ vẫn làm thế? Là để đóng kịch trước nhân dân Việt Nam
rằng họ “vô can”. Tất cả là tại TQ tham lam và bành trướng mà thôi...,
nhưng họ “sợ bát nước đổ đi không hót lại được” nên họ sẽ không kiện TQ
ra tòa QT - mà chỉ “dọa TQ” thôi... để giữ “bát nước Tàu cho” mà húp
chứ...!
Các quan điểm khác cho rằng công hàm PVĐ vô hiệu lực
Ngoài
quan điểm và tuyên bố chính thức mới nhất trên về hiệu lực của Công hàm
PVĐ dựa trên bối cảnh thực tế thời điểm VNDCCH ký công hàm, còn có vài
quan điểm khác cũng cho rằng công hàm đó vô hiệu lực pháp lý do bối cảnh
hay do hành văn ẩn ý, như:
1. Công hàm PVĐ chỉ nói đến lãnh hải 12 hải lý chứ có nói đến HS TS đâu?
Đây là cách lừa dân thô thiển của CSVN khi họ nói đến công hàm PVĐ mà
không đưa ra cho Tuyên bố ngày 4/9/1958 của TQ chính là nguyên nhân phải
có công hàm đó. Có
người còn nghi ngờ rằng công hàm VN và
Tuyên bố TQ là do cùng một nhóm soạn thảo từ trước, PVĐ chỉ việc ký
thôi.
(Có
người còn đùa: Chủ nhật 14/9/58, Bác gọi chú Đồng sang Phủ Chủ tịch
chơi rồi đưa công hàm Bác đã đánh máy sẵn để chú ký mang về VPCP bên
cạnh để gửi ngay đi Bắc Kinh...)
2. Chữ ký của PVĐ không có hiệu lực
vì PVĐ là thủ tướng lúc đó do đảng phân công, không đúng trình tự được
qui định cho việc bổ nhiệm Thủ tướng trong Hiến pháp 1946 (đang “có hiệu
lực” lúc đó) qui định Thủ tướng do Chủ tịch nước chọn từ Nội các rồi
phải được Quốc hội phê chuẩn... Vì thế, người đứng đầu chính phủ
VNDCCH lúc đó là
HCM, không phải PVĐ.
3. Thủ tướng PVĐ không có quyền hạn tự ký công hàm về các vấn đề lãnh thổ
mà phải được Quốc hội đồng ý và phê chuẩn quan điểm, nội dung trước đó.
Có nghĩa là PVĐ đã ký công hàm 1958 vượt quyền hạn cho phép...
4. Công hàm PVĐ chỉ là thư công ngoại giao (diplomatic notes), không có hiệu lực pháp lý quốc tế....?
Trong
các lập luận trên, chỉ có lập luận đầu tiên hay được nói đến là đáng
bàn kỹ thêm, đó là, công hàm PVĐ vô hiệu lực vì hành văn ẩn ý của nó
tránh nói đến HS và TS.
Vậy nên hiểu thế nào
về câu: “Chính phủ nước VNDCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố
ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước CHNDTH, quyết định về hải phận của
Trung Quốc.” Đây là câu phức hợp có hai mệnh đề tách nhau bởi dấu phẩy mà mệnh đề chính đi trước, mệnh đề sau là phụ.
Có người nói, đó là CPVN chỉ ghi nhận và tán thành phần quyết định về hải phận 12 hải lý của TQ mà thôi, để biện minh cho tính vô tội của công hàm PVĐ. Hiểu thế có đúng không?
Mệnh
đề chính nói đến Tuyên bố ngày 04/9/1958 của TQ và VN hoàn toàn tán
thành 4 điểm chính của nó, và thế là hoàn toàn đủ ý trọn câu, có
thể chấm hết
câu ở đây: “Chính phủ nước VNDCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước CHNDTH.” Nếu
Tuyên bố của TQ đó có một số hiệu văn bản riêng và rõ ràng (như ngày
nay mọi công ty con tý nhất khi ra bất kỳ văn bản nào đó cũng phải có số
công văn bên cạnh ngày ra công văn để phân biệt và lưu trữ thông tin),
thì câu trên chỉ cần ghi cả mã số của Tuyên bố của TQ đó là xong, không
cần có mệnh đề phụ sau dấu phẩy để phân biệt với ác tuyên bố khác nếu có
nữa.
Chính
vì TQ đã không có số văn bản cho Tuyên bố ngày 04/9/1958 nên nếu trong
ngày đó TQ phát ra nhiều hơn 2 tuyên bố gì đó thì trả lời ngày 14/9/1958
của VN (cũng lại không có
mã số
văn bản, dù là chỉ cho nhu cầu lưu trữ!) sẽ khó hiểu, vì không biết là
cho Tuyên bố nào của TQ. Vì thế, công hàm của PVĐ ký trong câu đầu dù đã
đủ trọn ý muốn nói là ghi nhận và tán thành hoàn toàn Tuyên bố ngày
4/9/58 của TQ, bao gồm cả việc Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ và lãnh
hải của Trung quốc rồi, thì PVĐ vẫn phải có thêm mệnh đề phụ để nói rõ
là mình ghi nhận và tán thành cái tuyên bố nào của TQ! Thế thôi… Có hay
không có mệnh đề phụ ở câu đầu thì ý chính vẫn đã trọn như thế, và câu
sau chỉ là “xin hứa” về cách triển khai thực hiện sự tôn trọng hải phận
12 hải lý của TQ để tạo cảm giác là công hàm chỉ nói đến hải phận 12 hải
lý?! Nhưng tất cả đã được định đoạt trong một mệnh đề chính của câu đầu
tiên của công hàm PVĐ rồi.
Còn
nếu PVĐ (hay HCM) muốn nói tôi chỉ ghi nhận và tán thành phần về hải
phận 12 hải lý trong tuyên bố ngày 04/9/1958 của TQ thì Chính phủ VN
phải viết (bằng tiếng Việt) như sau:
“Chính
phủ nước VNDCCH ghi nhận và tán thành phần về hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc trong bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước CHNDTH.
Riêng phần về lãnh thổ TQ bao gồm cả quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa của VN
chúng tôi) và Nam Sa (Trường Sa của VN chúng tôi) thì chúng tôi xin
không đồng ý và đề nghị đồng chí Tổng lý xem lại trên tinh thần “môi hở
răng lạnh” mà Mao Chủ tịch đã
dạy bảo chúng
ta...
Hẳn
đồng chí Tổng lý còn nhớ cách đây 4 năm ở Hội nghị Geneve đồng chí đã
khuyên tôi cắt phần đất và biển đảo VN sau Vĩ tuyến 17 về phía Nam, bao
gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cho chính quyền ông Ngô Đình
Diệm tạm thời quản lý, để sau này các đồng chí sẽ giúp chúng tôi xây
dựng XHCN mạnh hơn rồi mới giúp chúng tôi lấy lại phần đất và biển đảo
đó?
Về
phần biển phía Bắc Vĩ tuyến 17, Chính phủ nước VNDCCH tôn trọng quyết
định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để
tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc,
trong mọi quan hệ
với nước CHNDTH trên mặt bể. ”
By
the way, tiện thể, tôi rất ngạc nhiên khi thấy đến 1958 và ở cấp cao
nhất (chính phủ) với các vấn đề quan trọng nhất (lãnh thổ, lãnh hải) mà
chính phủ cả TQ và VN đều chưa áp dụng chế độ mã số công văn giao dịch
nội ngoại để theo dõi, phân biệt, lưu trữ và bảo quản tài liệu, thông
tin? Hay là chỉ có hai công văn (Tuyên bố 4/9/58 và công hàm 14/9/58)
trên là ngoại lệ “ngoài luồng”, không do và không qua hệ thống văn thư
của VPCP VN viết ra và lưu trữ? Việc này có thể kiểm tra khá dễ dàng nếu
hai chính phủ muốn làm sáng tỏ?
Còn nhớ, có lần tôi đã hỏi ba
tôi: Ba ơi, mấy
ký mã hiệu trong góc giấy khai sinh của chị và con sao lại giống nhau
dù chúng con được sinh ở hai thành phố khác nhau (HN và NĐ)? Ba tôi thú nhận: Hồi
1958, sau khi các con sinh ra, lúc đó ba là thư ký một nhà máy cơ khí ở
HN và ba đã tự đánh máy giấy khai sinh của các con, tự cho số mã hiệu
vào đó cho giống văn thư nhà nước, tự mua tem dán vào như là có công
chứng… để các con có tiêu chuẩn làm sổ gạo cùng ba mẹ, không thì nhà ta
đói to... Như thế có nghĩa là, năm 1958, ba tôi, một chiến sĩ quân
giới tiểu đoàn 307, mới có tiểu học đã bỏ đi làm ở Ba Son, rồi đi bộ
đội, còn biết cho mã số vào giấy khai sinh của chúng tôi cơ mà?...
Tại sao nói CPVN không thể phủ nhận hiệu lực pháp lý của công hàm PVĐ?
Trước
khi trình bày quan điểm của mình cho rằng dù CP CHXHCN VN hiện nay có
nói gì thì công hàm PVĐ vẫn có hiệu lực pháp lý, tôi xin nói rõ mong
muốn của cá nhân tôi cũng như của đại đa số người Việt Nam thôi, rằng
giá mà công hàm PVĐ vô hiệu lực, hoặc giá mà không hề tồn tại công hàm
PVĐ thì tốt hơn cho dân tộc Việt Nam. Nhưng chúng ta vẫn cần phải đối
diện sự thực để vượt qua nó.
Thứ nhất,
công hàm PVĐ là một văn bản pháp lý quốc tế thể hiện quan điểm chính
thức của Chính phủ VNDCCH,
nay là CHXHCN VN mà PVĐ là Thủ
tướng của cả hai chính phủ đó trong hơn 32 năm (1947-1975: VNDCCH,
1975-1979: CHXHCNVN) về một vấn đề quốc tế: về lãnh thổ và lãnh hải của
TQ. Quan điểm đó tồn tại chừng nào chính phủ đó hay hậu duệ và/hoặc thừa
kế của nó tồn tại mà không có công hàm pháp lý chính thức khác cấp cao
hơn bác bỏ hay phủ nhận nó.
Hiện
nay, hậu duệ thừa kế của VNDCCH là CHXHCNVN chưa có văn bản pháp lý nào
cấp cao hơn công hàm cấp Chính phủ do người đứng đầu CP ký như công hàm
PVĐ ngày 14/9/1958 phủ nhận công hàm PVĐ thì công hàm PVĐ năm 1958 vẫn
hoàn toàn còn hiệu lực.
Thứ hai,
dù nội dung công hàm 1958 của
PVĐ là xác nhận
chủ quyền của TQ đối với hai quần đảo HS và TS là nơi lúc đó không
thuộc quyền quản lý của Chính phủ VNDCCH thì sự công nhận đó vẫn có hiệu
lực pháp lý đối với chính phủ ra công hàm đó, bởi vì quan điểm là cam
kết hoặc là niềm tin.
Ví
dụ, khi Thủ tướng Cămpuchia tuyên bố xác nhận HS và TS là của TQ thì
công hàm đó có hiệu lực pháp lý không? Có. Chính phủ Campuchia có thể
nói: "Vì tôi không quản lý HS và TS nên những gì tôi nói về HS và TS là
không có giá trị pháp lý!" Không? Không! CP Campuchia cam kết gì qua
tuyên bố đó? Họ cam kết rằng khi cần hành động liên quan đến HS và TS họ
sẽ tuân theo ý muốn của TQ mà họ coi là chủ của HS và TS. Như thế,
tuyên bố đó vẫn có
giá trị
pháp lý và Chính phủ Campuchia phải chịu mọi trách nhiệm về tuyên bố đó
của mình. Nếu họ giữ nó – quan hệ với VN sẽ sứt mẻ có hại cho
Cămpuchia, nếu không giữ nó, quan hệ với TQ sẽ sứt mẻ, sẽ không có 20 tỷ
đôla viện trợ của TQ nữa... cho đến khi họ chính thức thay đổi quan
điểm đó.
Thứ ba,
trong trường hợp công hàm PVĐ năm 1958 của VN, VN không chỉ là bên thứ
ba thể hiện quan điểm về vấn đề/sự việc của các bên khác, mà VN (DCCH)
luôn tự tuyên bố mình mới là “kẻ thừa kế chính thức” lãnh thổ của chính
phủ VNCH – tức là CP VNDCCH là “kẻ có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan”,
lại càng không thể chạy trốn trách nhiệm và tuyên bố những gì mình nói
là vô giá
trị pháp lý.
Thứ tư,
công hàm PVĐ là một công văn ngắn chỉ có hai câu và nội dung rất chung
chung chỉ nhằm ghi nhận và tàn thành Tuyên bố ngày 4/9/1958 của TQ mà
thôi, và bất kỳ chính phủ nào ký nó cũng phù hợp và cơ lợi cho TQ, và sự
tán thành đó có thể có hiệu lực vượt thời gian. Ví dụ, nếu thay PVĐ và
CPVN bằng Hunsen và CP CPC (hay Kim và CP Bắc TT...) thì ta có “công
hàm” như:
“Kính gửi: đồng chí Chu Ân Lai
Tổng lý Quốc vụ viện nước CHNDTH
Kính thưa đồng
chí Tổng lý,
Chính
phủ nước Campuchia Dân chủ/CHNDTT ghi nhận và tán thành bản tuyên bố
ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước CHNDTH, quyết định về hải phận của
Trung Quốc. Chính phủ nước CPC DC/CHNDTT tôn trọng quyết định ấy và sẽ
chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải
phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước CHNDTH trên
mặt bể.
Hunsen/Kim
(đã ký và đóng dấu)
Thủ
tướng Chính phủ nước CPC
DC/CHNDTT”
Tức là ai ký cũng được, chỉ cần có người ký. Tức là công hàm này có thể đã được ai đó viết sẵn cho PVĐ ký thôi.
Đó
là chưa kể, cách hành văn không phải của người Việt của hai câu văn duy
nhất của công hàm PVĐ đều giống nhau đó là cấu trúc câu hai mệnh đề
chính trước phụ sau (người Việt thích nói phụ trước chính sau) và tách
biệt nhau cộc lốc bởi dấu phẩy (người Việt sẽ thích dùng liên từ để nối
hai mệnh đề cho câu văn mềm dẻo đi như “với”, “về” (cho câu đầu) hay bỏ
dấu phẩy nếu không cần thiết (cho câu sau).
Tất
cả những điều trên chỉ ra rằng, không chỉ nói một công văn nòa đó vô
hiệu lực là nó vô hiệu lực. Nếu TQ dựa trên công hàm 1958 của PVĐ để
“chứng minh” cho chủ quyền của họ đối với các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa trước Tòa án quốc tế, và bên nguyên đơn là chính phủ CSVN
chính là kẻ đã ra công hàm đó, thì cái lý, cái chính nghĩa tất nhiên
không còn thuộc về VN nữa, vì đã là kẻ viết và ký công hàm 1958 tự bán
nước đó rồi.
Thế
cho nến, vấn đề ở đây là không chỉ là kiện TQ mà còn phải là ai kiện TQ
– Chính phủ CSVN hay chính phủ khác của nhân dân VN? Bởi vì, đã là kiến
thì không kiện được khoai, phải
là đá…
Ai có thể phủ nhận tính pháp lý của công hàm PVĐ 1958?
Câu
trả lời khá đơn giản, đó là chính phủ thừa kế và là hậu duệ chính trị
của chính phủ đã quản lý HS TS và phản đối TQ đến cùng (bằng hành động
chiến đấu bảo vệ HS) - chính phủ VNCH. Có nghĩa là, đó sẽ không phải là
chính phủ CSVN hiện nay hay các biến thể trá hình của nó nếu có sau này.
Có nghĩa là, đó sẽ phải là một chính phủ hậu cộng sản, một chính phủ
dân chủ.
Nhưng
nếu đó sẽ là một chính
phủ hậu cộng sản, một chính phủ dân chủ của VN sau
này, thì để đòi lại HS TS họ có cần phủ nhận công hàm PVĐ nữa không?
Không. Cùng với sự sụp đổ của chính phủ cộng sản, mọi cam kết, thỏa
thuận hay quan điểm của chính phủ CSVN với TQ tự động trở nên vô hiệu
lực pháp lý. Lúc đó, TQ (nếu còn) thì cũng không thể dùng các loại thỏa
thuận kiểu công hàm 1958 hay cam kết thành đô 1990 của đảng CSVN để xâm
chiếm biển đảo và lãnh thổ Việt Nam được nữa.
Mọi
điều cuối cùng đều dẫn đến một điểm đầu tiên: để bảo vệ lãnh thổ đất
nước và tương lai Việt Nam đầu tiên phải hạ bệ chính phủ CSVN trước hết
và thay bằng chính phủ dân chủ chính danh do toàn dân hơn 90 triệu người
Việt khắp năm châu bầu ra để
đại diện
họ thừa kế non sông đất nước, lãnh thổ quốc gia mà dân tộc Việt Nam đã
để lại cho đời sau, thì 90 triệu người Việt mới có thể cùng nhau đòi lại
Hoàng Sa và một phần Trường Sa, và ải Nam Quan, thác Bản Giốc... từ tay
Trung cộng mà CSVN đã cống nạp mới gần đây.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen