Dienstag, 11. März 2014

CỘNG HOÀ BULGARIA (BẢO GIA LỢI)

HẮC HẢI TIẾP GIÁP CÁC QUỐC GIA -BULGARIA - ROMANIA -UKRANIA- NGA- VÀ THỖ NHĨ KỲ-LÀ THÀNH VIÊN KHỐI NATO KHÔNG ĐÁNG TIN CẬY 
CỘNG HOÀ BULGARIA  (BẢO GIA LỢI)
tka23 post
Bulgaria (tiếng Bulgaria: България, Balgariya, Tiếng Việt: Bun-ga-ri[1]), tên chính thức là Cộng hòa Bulgaria (Република България, Republika Balgariya) là một quốc gia nằm tại khu vực đông nam châu Âu. Bulgaria giáp với România về phía bắc, giáp với Serbia  Cộng hòa Macedonia về phía tây, giáp với Hy Lạp  Thổ Nhĩ Kỳ về phía nam và cuối cùng giáp với Biển Đen về phía đông.
Dãy núi Balkan chạy từ đông sang tây phía bắc Bulgaria. Người Bulgaria gọi dãy núi này là “Núi Cũ” (Stara Planina). Sông Donau tạo thành phần lớn biên giới phía bắc Bulgaria.
Giữa Sofia ở phía tây và Biển Đen là một vùng đồng bằng thấp gọi là thung lũng hoa hồng, trong 3 thế kỷ đã trồng ở khu vực này. Hoa hồng Kazanluk được ưa chuộng và được xuất cảng  do mùi hương riêng biệt của nó, dùng để sản xuất nước hoa. Về phía đông là bờ biển Hắc Hải với những mỏm đá phía bắc và các bãi cát phía nam thu hút du khách khắp thế giới.
Vị trí của Bulgaria ở giao lộ quan trọng của hai châu lục khiến đây là nơi tranh giành quyền lực trong nhiều thế kỷ. Là một vương quốc độc lập trong nhiều thế kỷ, Bulgaria đã là một cường quốc lớn trong thời gian dài thời Trung cổ.
  Bulgaria là một nước có truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời tại châu Âu. Đế quốc Bulgaria thứ nhất hùng mạnh đã từng mở rộng lãnh thổ ra khắp vùng Balkan và có những ảnh hưởng văn hóa của họ ra khắp các cộng đồng người Slav tại khu vực này. Vài thế kỉ sau đó, với sự sụp đổ của Đế quốc Bulgaria thứ hai, đất nước này bị Đế quốc Ottoman đô hộ trong gần 5 thế kỉ sau đó. Năm 1878, Bulgaria trở thành một nước quân chủ lập hiến tự trị nằm trong Đế quốc Ottoman.
  Sau Thế chiến thứ hai (1939-1945), một chính phủ được Liên Xô ủng hộ đã được lập ở Bulgaria. Bulgaria đã thực hiện chương trình công nghiệp hóa trong thời kỳ những người cộng sản cầm quyền. Chính quyền Bulgaria đã cải cách dân chủ năm 1989. Năm 1990, Bulgaria đã tổ chức tổng tuyển cử nhiều đảng phái và đã đổi tên từ Cộng hòa Nhân dân Bulgaria thành Cộng hòa Bulgaria.
Tiến trình chuyển đổi dân chủ và thể chế kinh tế của Bulgaria không dễ dàng do việc mất thị trường truyền thống Liên Xô. Điều này dẫn tới tình trạng đình đốn kinh tế, lạm phát và thất nghiệp gia tăng. Nhiều người Bulgaria đã rời bỏ đất nước.  cải cách vẫn tiếp tục và năm 2000, Bulgaria đã bắt đầu đàm phán xin gia nhập EU.
Nước này là thành viên của NATO từ năm 2004 và thành viên Liên minh Châu Âu từ năm 2007. Dân số Bulgaria là 7,7 triệu người với thủ đô là Sofia

Địa lý


Về địa lý và khí hậu, Bulgaria có đặc biệt  đáng chú ý ở sự đa dạng với các phong cảnh từ các đỉnh núi tuyết phủ tại Alpine  Rila, Pirin  dãy núi Balkan cho tới bờ Biển Đen ôn hoà và nắng ấm; từ kiểu đặc thù lục địa Đồng bằng Danub (Moesia cổ) ở phía bắc tới khí hậu ảnh hưởng Địa Trung Hải tại các thung lũng thuộc Macedonia và tại các vùng đất thấp phía cực nam Thrace.
  Bulgaria có khí hậu ôn hoà, với mùa đông lạnh và mùa hè nóng. Hiệu ứng ngăn chặn của dãy núi Balkan có một số ảnh hưởng trên khí hậu ở khắp nước: bắc Bulgaria có nhiệt độ thấp hơn và có lượng mưa cao hơn các vùng đất thấp phía nam.
alt
alt
Đỉnh Malyovitsa, núi Rila
Bulgaria gồm các phần của các vùng từng được biết tới ở thời cổ đại  Moesia, Thrace, và Macedonia. Vùng núi non phía tây nam đất nước có hai dãy núi thuộc Alpine — Rila  Pirin — và ở xa hơn về phía đông là Núi Rhodope thấp hơn nhưng dày đặc hơn. Rặng Rila có những đỉnh cao nhất trên Bán đảo Balkan, Musala, ở độ cao 2925m; dãy dài của dãy núi Balkan chạy hướng đông tây qua trung tâm đất nước, phía bắc của Thung lũng Hoa hồng nổi tiếng. Vùng đồi và đồng bằng nằm ở phía đông nam, dọc theo bờ Biển Đen, và dọc theo con sông chính của Bulgaria, sông Danube, ở phía bắc. Strandzha là núi cao nhất ở phía đông nam. Vùng đông bắc Dobrudzha ít có đồi núi. Bán đảo Balkan có tên từ dãy núi Balkan hay Stara planina chạy qua trung tâm Bulgaria và mở rộng tới vùng phía đông Serbia.
Bulgaria có trữ lượng quặng mangan lớn ở phía đông bắc và uranium ở phía tây nam, cũng như một trữ lượng lớn than và các loại quặng đồng, chì, kẽm  vàng. Các loại quặng khác có trữ lượng nhỏ hơn gồm sắt, bạc, chromite, nickel, bismuth và các loại khác. Bulgaria có nhiều khoáng sản phi kim loại như đá muối, thạch cao, kaolin  marble.
Nước này có mạng lưới sông dày đặc với khoảng 540 con sông, đa số chúng -ngoại trừ con sông Danube nổi tiếng— ngắn và có mực nước thấp.[2] Đa số các con sông chảy qua các vùng núi non. Con sông lớn nhất nằm hoàn toàn bên trong lãnh thổ Bulgaria, sông Iskar, có chiều dài 368 km. Các con sông lớn khác gồm sông Struma sông Maritsa ở phía nam.
Các dãy núi Rila và Pirin có khoảng 260 hồ băng; nước này cũng có nhiều hồ nằm trên bò Biển Đen và hơn 2.200 hồ đập. Có nhiều suối nước khoáng, chủ yếu nằm ở phía tây nam và trung tâm đất nước dọc theo các đứt gãy giữa các dãy núi.
Lượng mưa ở Bulgaria trong khoảng 630mm mỗi năm. Tại các vùng đất thấp lượng mưa trong khoảng từ 500mm và 800mm, và tại các vùng núi trong khoảng từ 1000mm và 1400mm mỗi năm. Các vùng khô hơn gồm Dobrudja và dải bờ biển phía bắc, trong khi các vùng cao hơn thuộc Rila, Pirin, Núi Rhodope, Stara Planina, NúiOsogovska  Vitosha có lượng mưa trung bình lớn hơn.

.

Cộng hoà Nhân dân Bulgaria


Mặt trận Tổ quốc, một liên minh chính trị do những người Cộng sản chiếm đa số, lên nắm chính quyền  năm 1944 và Đảng Cộng sản tăng số thành viên từ 15.000 lên 250.000 người trong sáu tháng sau đó.
   Họ thiết lập quyền thống trị với cuộc cách mạng ngày 9 tháng 9 năm đó. Tuy nhiên, Bulgaria mãi tới năm 1946 mới trở thành một nhà nước cộng hoà nhân dân. Nước này rơi vào vùng ảnh hưởng của Liên xô, cùng với Georgi Dimitrov (Thủ tướng từ năm 1946 tới năm 1949) là nhà lãnh đạo có ảnh hưởng nhất của Bulgaria. Nước này thành lập nền kinh tế kế hoạch kiểu Liên xô, dù một số chính sách theo hướng thị trường đã xuất hiện ở dạng thực nghiệm[38] dưới thời Todor Zhivkov (Thư ký thứ nhất, 1954 tới năm 1989). Tới giữa những năm 1950 tiêu chuẩn sống tăng lên đáng kể, và vào năm 1957 các nông trang viên tập thể lần được hưởng hệ thống hưu bổng và an sinh xã hội nông nghiệp đầu tiên của Đông Âu.[39] Todor Zhivkov là người nắm quyền thực tế ở nước này từ năm 1956 tới năm 1989, vì thế trở thành một trong những lãnh đạo cầm quyền lâu nhất ở Khối Đông Âu. Zhivkov biến Bulgaria trở thành một trong những đồng minh đáng tin cậy nhất của Liên xô, và gia tăng tầm quan trọng của nó trong Comecon. Con gái ông Lyudmila Zhivkova trở thành nhân vật rất bật trong nước khi khuyến khích di sản, văn hoá và nghệ thuật quốc gia trên bình diện quốc tế.[40] Mặt khác, một chiến dịch đồng hoá bắt buộc hồi cuối những năm 1980 với sắc tộc Thổ Nhĩ Kỳ đã khiến khoảng 300.000 người Thổ Bulgaria di cư tới Thổ Nhĩ Kỳ.[41][42]
Nước Cộng hoà Nhân dân chấm dứt tồn tại năm 1989 như nhiều chế độ Cộng sản khác tại Đông Âu, cũng như chính Liên bang Xô viết, bắt đầu sụp đổ. Phe đối lập buộc Zhivkov và cánh tay phải của ông Milko Balev rời bỏ quyền lực ngày 10 tháng 11 năm 1989.

Cộng hoà Bulgaria

Tháng 2 năm 1990 Đảng Cộng sản tự nguyện dừng độc quyền quyền lực, và vào tháng 6 năm 1990 cuộc bầu cử tự do diễn ra, với chiến thắng thuộc phái ôn hoà của Đảng Cộng sản (đã đổi tên thành Đảng Xã hội Bulgaria — BSP). Tháng 7 năm 1991, nước này thông qua một hiến pháp mới quy định về một Tổng thống khá ít quyền lực và một Thủ tướng có trách nhiệm về lập pháp. Thập niên 1990 là giai đoạn nước này có tỷ lệ thất nghiệp cao, lạm phát cao và không ổn định cũng như sự bất bình của dân chúng.
Từ năm 1989, Bulgaria đã tổ chức các cuộc bầu cử đa đảng và tư nhân hoá nền kinh tế của mình, nhưng những khó khăn kinh tế và một làn sóng tham nhũng khiến hơn 800.000 người Bulgaria, hầu hết là các nhà chuyên môn có trình độ, di cư trong một cuộc "chảy máu chất xám". Gói cải cách được đưa ra năm 1997 đã khôi phục sự tăng trưởng kinh tế, nhưng dẫn tới sự gia tăng bất bình đẳng xã hội. Bulgaria trở thành một thành viên của NATO năm 2004 và của Liên minh châu Âu năm 2007, và US Library of Congress Federal Research Division đã thông báo trong năm 2006 rằng nước này nói chung có các thành tích tự do ngôn luận  nhân quyền tốt.[43] Năm 2007 the A.T. Kearney/Foreign Policy Magazine Chỉ số Toàn cầu hoáxếp Bulgaria đứng hàng 36 (giữa Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa  Iceland) trong số 122 quốc gia.[44]

Chính trị


alt
alt
Lính gác trước Văn phòng Tổng thống
Từ năm 1991 Bulgaria đã là một quốc gia dân chủ, đơn nhất cộng hoà nghị viện hiến pháp.
Nước này đã trở thành một thành viên của Liên hiệp quốc năm 1955, và là một thành viên sáng lập của OSCE năm 1995. Với tư cách một Đối tác Tham vấn của Hiệp ước Bắc Cực, Bulgaria đã tham gia vào ban quản lý các lãnh thổ nằm ở phía nam vĩ độ 60° nam.[45][46] Quốc hội hay Narodno Sabranie (Народно събрание) gồm 240 đại biểu, với nhiệm kỳ 4 năm và được bầu lên bởi nhân dân. Một đảng hayliên minh phải giành tối thiểu 4% phiếu bầu để có đại diện trong nghị viện. Quốc hội có quyền ban hành pháp luật, thông qua ngân sách, lập kế hoạch bầu cử tổng thống, lựa chọn và bãi chức Thủ tướng và các bộ trưởng khác, tuyên chiến, triển khai quân đội ở nước ngoài và thông qua các hiệp ước và thoả thuận quốc tế. Một chính phủ thiểu số do đảng Các công dân vì sự phát triển châu Âu của Bulgariacầm quyền từ sau cuộc bầu cử tháng 7 năm 2009.
Hệ thống tư pháp gồm các toà án vùng, quận và phúc thẩm, cũng như một Toà Phá án Tối cao. Ngoài ra, Bulgaria có một Toà án Hành chính Tối cao và một hệ thống toà án quân sự.
Tổng thống Bulgaria  nguyên thủ quốc gia và tổng tư lệnh các lực lượng quân đội . Ông cũng là chủ tịch Hội đồng Tư vấn An ninh Quốc gia. Tuy không thể đưa ra bất kỳ điều luật nào ngoài việc đề xuất sửa đổi Hiến pháp, Tổng thống có thể từ chối một điều luật buộc nó phải quay lại trải qua quá trình tiếp tục tranh luận, dù nghị viện có thể bác bỏ sự phủ quyết của tổng thống bằng một đa số đại biểu.
Nước này gia nhập NATO ngày 29 tháng 3 năm 2004 và đã ký kết Hiệ ước gia nhập Liên minh châu Âu ngày 25 tháng 4 năm 2005.[47][48] Nước này trở thành một thành viên đầy đủ của Liên minh châu Âu ngày 1 tháng 1 năm 2007,[49] và được bầu 17 thành viên vào trong Nghị viện châu Âu.[50]

Quân đội


alt
alt
Một chiếc MiG-29 của BAF tại Căn cứ Không quân Graf Ignatievo
Quân đội Bulgaria gồm ba quân chủng  – lục quân, hải quân  không quân.
Sau một loạt các cuộc cắt giảm năm 1989, quân đội thường trực nước này chưa tới 45.000 người (hiện tại), giảm từ gần 200.000 năm 1988. Các lực lượng dự trữ gồm 303.000 binh lính và sĩ quan. Một số nhánh bán quân sự, như biên phòng và quân đội xây dựng đường sắt có tồn tại và có khoảng 34.000 người. Các lực lượng vũ trang có các thiết bị khá hiện đại của Liên xô, như máy bay chiến đấu MiG-29, hỏa tiển đất đối không SA-6 Gainful  SA-10 Grumble và hỏa tiển  đạn đạo tầm ngắn SS-21 Scarab.
alt
alt
Xe thiết giáp M1114 của Bulgaria tuần tra trên các đường phố Kabul, tháng 7 năm 2009
Quân đội Bulgaria đã tham gia vào nhiều nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia, Bosna và Herzegovina, Kosovo, Afghanistan  Iraq.  Bulgaria có hơn 700 nhân viên quân sự ở nước ngoài, chủ yếu tại Afghanistan (610 người), tại Bosna và Herzegovina (khoảng 100 người) và tại Kosovo (khoảng 50 người).
Năm 2008 Bulgaria đã bãi bỏ quân dịch  với các công dân của họ. Hải quân và không quân Bulgaria đã hoàn toàn chuyên nghiệp hoá năm 2006, và các lực lượng lục quân tiếp nối vào cuối năm 2008. Các lực lượng đặc biệt đã phối hợp với  SAS, Delta Force, KSK, và Spetsnaz của Nga.
Tháng 4 năm 2006 Bulgaria và Hoa Kỳ đã ký một thoả thuận hợp tác quốc phong theo đó đưa các căn cứ không quân tại Bezmer (gần Yambol) và Graf Ignatievo (gần Plovdiv), trại huấn luyện Novo Selo (gần Sliven), và một trung tâm tiếp lieu  tại Aytos trở thành cơ sở quân sự chung. Tạp chí Foreign Policymagazine coi Căn cứ Không quân Bezmer là một trong sáu địa điểm hải ngoại quan trọng nhất do USAF sử dụng.[51]
 chi tiêu quân sự chiếm khoảng 1.98% GDP.


BKTT
__._,_.___

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen