LTS: Sau khi cướp trọn cả nước Việt Nam Cộng Hòa bằng vũ khí của
Nga-Tàu, và của một số nước cộng sản Đông Âu vào ngày 30/4/1975; do sự
khủng bố dã man trong cuộc chiến phá hoại và xâm lăng nước Việt Nam Cộng
Hòa của đảng Cộng sản VN, mà tiêu biểu qua các vụ thảm sát người dân
nước Việt Nam Cộng Hòa trong dịp Tết Mậu Thân 1968, kinh hoàng nhất là
tại Cố đô Huế, với trên 5 ngàn nạn nhân bị chôn sống. Rồi "Đại lộ Kinh
Hoàng" mùa hè đỏ lửa 1972, các cuộc pháo kích bừa bãi vào khu dân cư,
thị tứ, trường học, giật mìn xe đò, ném lựu đạn, đặt mìn vào nhà hàng,
các rạp chiếu phim, những nơi đông dân chúng... giết hại đồng bào vô tội
để gây tiếng vang, để khủng bố tinh thần người dân miền Nam Việt Nam...
Tất cả những hành vi sát nhân khủng bố trên, đã do bàn tay đẫm máu của
đảng CSVN gây ra, ngày càng gia tăng sau khi chúng đã cam kết ký trước
sự giám sát của quốc tế và cố tình vi phạm trắng trợn các hiệp định đình
chiến này cho tới nay.
Do đó, sau ngày Quốc Hận
30/4/1975, làn sóng người Việt liều mình bỏ nước đi tìm tự do bằng những
phương tiện mong manh còn sót lại, không những bỏ cả của cải, tiền bạc,
gia sản... mà còn đánh đổi bằng chính mạng sống của hàng trăm ngàn
người trên đường tìm đến bến bờ "Tự Do". Và sự kiện trên, đã làm rúng
động lương tâm thế giới.
Tuy nhiên, với bản chất vô
luân, tham lam, tàn ác, chuyên làm tay sai cho ngoại bang, đảng CSVN đã
không ngần ngại sát hại dân lành, bán nhượng giang sơn của Tổ Tiên cho
giặc thù phương Bắc là Trung cộng.
Trong cuộc đào thoát
khỏi sự cai trị dã man, cùng những đòn thù hèn hạ, tàn ác của đảng CSVN,
người dân VNCH đã bị bọn CSVN dùng nhiều thủ đoạn khác nhau để lừa lọc,
nhằm cướp hết cả tài sản lẫn sinh mạng của những nạn nhân đã vì khát
vọng Tự Do mà liều mình tin theo lời chúng; cho dù họ đã đánh đổi hai
chữ "Tự Do" bằng tiền của, lẫn tài sản của chính họ và của gia đình họ
cho chúng.
Hồn Việt UK online kính mời quý độc giả cùng
theo dõi một câu chuyện, một sự kiện có thật trong hàng trăm, hàng ngàn
việc lừa lọc để giết người cướp do đảng CSVN đã gây ra cho những người
dân của nước VNCH.
* * *
May mắn cho tôi là khi vượt biên vô cùng thuận buồm xuôi gió, nhưng
ngược lại, tôi là chứng nhân cuả một vụ cướp của giết người thật là rùng
rợn do bọn cộng sản Việt Nam thực hiện vào năm 1977 tại căn cứ Hải quân
Cát Lái cũ cuả QLVNCH.
Lúc bấy giờ tôi làm công nhân
cho thuỷ đội Cảng Sàigòn, trên chiếc tàu kéo CSG 92 (Soài Rạp). Vào
khoảng tháng 1 năm 1977 tàu chúng tôi chạy lên con sông Sàigòn tới phía
sau nhà máy nhiệt điện Thủ Đức và kéo chiếc tàu tên là Chi Mai về Kinh
Tân Thuận (kinh đôi) để cơ xưởng cảng Sàigòn gắn thêm một số máy phụ như
máy charge gió (air compressor), máy bơm nước lườn, cũng như gắn thêm
một số ống gió thông hơi từ boong tàu xuống tận 3 tầng dưới hầm máy.
Tôi thấy cách thiết kế vô cùng lạ mắt và không có một chút gì là an
toàn cho việc vận hành, cũng như an toàn thoát hiểm tối thiểu cho một
con tàu di chuyển trên sông nước. Tôi có hỏi chú sáu Bền người công nhân
đầu não của xưởng nầy về việc lạ lùng này thì chú trả lời rằng: “Chú
đâu biết gì đâu. Nghe nói rằng thành uỷ thuê xưởng sửa chữa làm một số
việc và nhà nước đôi bên thanh toán cho nhau. Chú chỉ là lính lác nên
đâu biết gì việc cuả họ”.
Con tàu nầy có máy chính hiệu
của Đức chế tạo, công suất 900 horse power. Con tàu nầy dài khoảng chừng
22m rộng 5,5 mét, chiều sâu tính từ mớm nước khoảng 3, 3 mét, nhưng nếu
tính từ trên mặt boong (deck) khoảng 5 mét là cùng. Khi tàu nầy gần ra
khỏi ụ sửa chữa nó được hàn thêm một số miếng sắt chữ V loại 6mm làm một
boong giả thêm nữa, cao hơn mặt boong khoảng 1.70 mét.
Bấy giờ
những người Hoa kiều trong Chợ Lớn thường tấp nập vào tầu nầy xem xét
cúng bái và họ thường mang trái cây hoặc thịt thà qua biếu cho chúng tôi
ăn. Sau vài lần họ muốn thuê chú hai Lâm Văn Tới làm máy trưởng cho tàu
nầy. Họ nói dối rằng đấy là tàu khách chạy từ sài Gòn đi Cần Thơ. Nhưng
chú khước từ, vì tàu CSG 62 cuả chú cũng sửa chữa sắp xong để hoạt động
kéo xà lan nước đi Vũng Tàu cung cấp cho các tàu chiến cũng như đánh cá
đang neo tại vùng cảng ấy. Sau họ bảo thật là đi vượt biên chính thức
và sẵn lòng chi 15 lượng vàng và cho hết 6 người trong gia đình chú đi
luôn không phải trả một xu nào cả, nhưng chú vẫn khước từ.
Sau đó
tôi thấy tên Út Lương tên thật là Lương Văn Út thuyền trưởng tàu khách
An Giang chạy từ Tân Châu -Long Xuyên -Sài Gòn và ngược lại, nhận lời.
Tên Út nầy là Việt kiều Kampuchia hồi hương về VN năm 69 hay 70 gì đó.
Năm đó là năm Quân Lực VNCH hành quân vô Kampuchia tấn công và san bằng
cục R cuả VC và cứu vớt Việt kiều khỏi bị bọn Lon Nol và Khmer Đỏ “ cáp
duồn” thả trôi sông Cửu Long về Việt Nam.
Út Lương có nước da sậm
nâu, gần giống như Miên. Không hiểu hắn xoay ở đâu ra bằng Tài Công
hạng nhất của Bộ giao thông và Bưu điện cấp cho hắn. Bằng màu đỏ hẳn
hòi, còn mới cứng, chứ thằng nầy nó dốt như Hồ Chí Minh, tiếng Tây thì
quẹt quẹt, tiếng Miên thì good, tiếng Việt và tiếng Tàu thì cũng khá
khá, nhưng về hải nghiệp nó là con zéro to tướng. Nội việc khử từ trường
cho hải bàn khi tàu sửa chữa, hay trang bị thêm chi tiết nó cũng không
biết, làm floating radar, hoặc tâm phương qua tín hiệu kiểm báo nó cũng
mù tịt, thì nói chi đến tính toán sai biệt trục địa cầu hàng năm để cộng
thêm vào hướng đi, hoặc trừ bớt cho đúng với hướng thật sự muốn đi.
Nhưng hắn vẫn nhận trách nhiệm đưa tàu đến Cát Lái.
Giờ đây tôi
không chắc nhớ rõ ngày tháng sự vụ xảy ra, tôi chỉ nhớ lúc ấy trời nắng
gắt lắm khoảng tháng 4 hay 5 gì đấy, bấy giờ tôi kéo xà lan chở nước
xuống kho dầu Shell ở Nhà Bè bơm cho tàu dầu Hasukha của Liên Xô, và sau
đó kéo ủi yểm trở cho hoa tiêu đưa tàu vào cặp cảng kho Esso Nhà Bè.
Việc xong xuôi, tôi cặp xà lan nước đã giao hàng xong, kéo về lại cảng
Sàigòn. Nhưng khi tàu sắp quanh vào khúc đèn xanh đỏ của sông Sàigòn,
thì tôi thấy người trôi nổi lặn hụp bơi ngửa, bơ xấp đủ kiểu hết. Họ có
áo phao bằng styro foam hoặc bằng túi hơi như loại hàng không phát cho
hành khách. Cũng có người ôm bẹ dừa nước thả ngửa trên sông.
Tôi
co giảm vận tốc tàu lại và yêu cầu anh em thuỷ thủ ở tàu kéo cũng như xà
lan thả các thang dây trên tàu và xà lan xuống tận mé nước đồng thời
lấy các phao tròn cột dây vào quăng ra cho họ bám vào để kéo họ lên các
thang dây của tàu và xà lan.
Lúc bấy giờ là nước ròng
chảy ra biển, và ngay chỗ nầy là mối tiếp giáp giữa 3 con sông Nhà Bè,
Sàigòn và Đồng Nai nên mực nước luôn chảy nghịch lẫn nhau tạo thành dòng
nước xoáy. Tôi sợ nạn nhân có thể bị lót lườn tàu và xà lan, vướng vào
chân vịt, nếu họ luýnh quýnh và không hiểu biết. Vì vậy tôi chỉ để số
vòng quay của chân vịt đủ mức cho tàu đứng yên một chỗ để đón cứu họ.
Lúc bấy giờ các ghe đóng đáy giàn xây (dòng xoay) tại ngã ba của ba con
sông cũng túa ra cứu giúp họ. Khi đó, trên tàu và xà lan của chúng tôi
đã cứu được 18 người. Bỗng phía bên sông Nhà Bè (Rạch Bảy) có nhiều
tiếng súng nổ chát chúa và canô công an VC tuần tra trên sông từ hướng
nhà máy dầu Navioil cũng như trên Cát Lái chạy đổ xuống, xuôi theo dòng
chảy, chúng bắn vào nạn nhân bơi trên sông không một chút thương tiếc,
và đuổi theo bắn tận nhà máy Silico gần đến vàm sông Phú Xuân, nơi có
căn cứ của bộ đội biên phòng đóng giữ.
Riêng tàu của chúng tôi bị
một tầu tuần tiễu có khoảng 6 công an nhảy lên bắt những nạn nhân này
trói lại bằng dây ở những chiếc phao họ mang trên người, rồi đẩy họ té
xuống tàu tuần cảnh, thấp hơn mặt boong xà lan ít nhất 2 mét. Khi không
còn chỗ chứa các nạn nhân, chúng xô họ trở lại giòng sông lúc đó đang
chảy xiết. Tôi la lên cản ngăn chúng, nhưng chúng bắt tôi vào trong
phòng lái tàu và yêu cầu tôi chạy về cầu bến phá Cát Lái. Trên đoạn
đường không đầy 2 cây số này tôi thấy vô số các túi sách may bằng nhựa
simili và giỏ đệm trôi bồng bềnh trên mặt nước. Chúng ra lệnh cho tàu
chạy chậm lại và dùng vợt chúng tôi thường dùng để vớt lon nhôm thực
phẩm hoặc thức uống của tàu ngoại quốc thường vứt bỏ trôi nổi trên sông
Sàigòn, để vớt những chiếc giỏ căng phồng này. Chúng tranh nhau mở ra
lục lọi lấy vàng, đô la, đồng hồ... rồi chia chác nhau ngay tại chỗ.
Vì phải chạy chậm để tụi công an vớt những chiếc giỏ trên mặt sông nên 2
giờ sau, tàu chúng tôi mới cặp được bến phà Cát Lái trong khi đoạn
đường không đến 2 cây số mà vận tốc bình thường của tầu tôi là 16 hải lý
giờ (khoảng 25 cây số giờ).
Khi tàu vừa cập bến, tụi công an bắt
chúng tôi lên bờ, lục soát trên tàu, xà lan và khám xét thân thể của
chúng tôi. Đến khoảng 10 giờ tối thì tên đại tá công an trưởng phòng cứu
hỏa đến hỏi chúng tôi có thấy điều gì hay không, có muốn khiếu nại gì
không? Chúng tôi dư hiểu chúng muốn gì, nên ai cũng phải lắc đầu, “thưa
không nghe, không thấy, không biết cũng như không khiếu nại điều gì”.
Chúng tôi chỉ xin chúng báo cáo về đội an ninh bảo vệ của bến cảng
Sàigòn là tàu chúng tôi bị vướng lưới nên phải lặn gỡ, vì vậy về trễ.
Chúng bằng lòng gọi phôn giúp cho việc ấy. Khi chúng tôi được thả trở
lại tàu, trên bến phá, tụi công an đã cho lập vòng rào an ninh cấm tất
cả nhân dân cùng những người không có trách nhiệm lui tới khu vực ấy.
Vòng đai này được kéo bằng kẽm concertina, phía trong ở giữa bến phá
chúng dùng nhưng manh cót quây tròn lại, che kín những xác người nằm
ngổn ngang ít nhất là 150 người. Những xác người được xếp dài khoảng 30
mét nằm kế bên nhau như cá trong hộp thành 3 hàng. Còn các túi hành lý
được chất ngay lên xe truck cuả công an mà loại này trước năm 1975 dùng
để tịch thu báo chí khi báo chí có nội dung xuyên tạc vu khống chính phủ
VNCH, để làm lợi cho cộng sản.
Sau đó hai ngày, đội
thủy của cảng Sàigòn được lệnh điều động tàu của chúng tôi kéo cần cẩu
100 tấn (có sức mạnh kéo nổi 100 tấn). Cần cẩu nầy nguyên là của quân
vận Mỹ bàn giao lại cho chính phủ VNCH, và sau chuyển lại cho cảng
Sàigòn xử dụng. Chúng tôi kéo cần cẩu nổi này ra đến Cát Lái khoảng 10
giờ sáng và người nhái công an (Bắc Kỳ) lặn xuống choàng dây cáp 16 mm
qua tàu Chi Mai để cho cần cẩu trục lên.
Nhưng không
biết loay hoay như thế nào đó họ làm mãi không xong, và phải xin toán
người nhái của cảng Sàigòn đến giúp đỡ. Toán người nhái ốm đói nầy vốn
là những công nhân trên 45 tuổi trước 1975 thuộc Ty Cảng Vụ cảng Sàigòn,
có nhiệm vụ lặn kiểm tra các đế phao neo (con rùa) trên sông Sàigòn,
cùng như kiểm tra chân đế cầu tàu trong cảng Sàigòn. Nhờ toán người nhái
của Sàigòn trước 1975 , công việc trôi chảy, tôi nổ máy đẩy cần cẩu nổi
ra xa, để neo căng cả 4 phiá và kéo tàu Chi Mai lên....
Khi dây cáp được kéo lên chưa được 3 mét, từ dưới mặt nước nổi vọt lên
những xác người như nhưng trái ngư lôi vừa thoát khỏi bệ phóng. Máu từ
mũi tai cuả họ trào ra trông thật thảm khốc. Chú hai Giỏi, cần cẩu
trưởng, người to như cảnh sát motor cycle của Mỹ, cũng phải rụng rời tay
chân không thể tiếp tục giữ cần LIFT và dừng tay lại ngay vị trí nầy.
Bọn công an trên cầu phà bụm tay lại làm loa ra lệnh kéo tiếp nên anh
Sanh phải nhảy lên phòng điều khiển thay thế chú hai Giỏi...
Dây được kéo lên từ từ thật chậm từng tấc cáp mỗi lần chuyển dịch, xác
người tiếp tục vọt nổi lên, Tôi không nhớ rõ lắm vì cảm giác đã chết
cứng tê dại, mắt mở nhưng hình như không còn biết gì cả. Vì đấy là xác
người vô tội bị VC xua đuổi, hoặc lừa đảo, nên họ phải trốn ra nước
ngoài. Họ là những người giàu có, có nhà cửa khang trang, cơ sở máy móc
sản xuất, mà bọn Cộng sản Bắc Kỳ xâm lược đang thèm thuồng muốn chiếm
lấy làm cuả riêng, nên đã lừa họ mang của cải xuống tàu rồi tìm cách
giết họ để chiếm đoạt của cải.
Khi tàu nhô cột cờ lên
khỏi mặt nước, một thảm cảnh mà suốt 16 năm sống xuôi ngược trên các
giòng sông cuả VN, bờ duyên hải VN và Philippines tôi chưa bao giờ trông
thấy cảnh tượng như thế. Qúy vị à! Một phụ nữ tay ôm chặt đứa bé gái
khoảng một tuổi đã sình chương cuộn tròn như một quày dừa non. Chiếc áo
Badesuite bằng thứ vải nylon dầy chắc vướng vào các móc dùng để móc cờ
hiệu của tàu hoặc tín hiệu. Trên mặt của nạn nhân bị tôm cá rỉa mất gần
hết một bên mặt....
Tàu Chi Mai tiếp tục được kéo lên,
trên mặt boong không còn gì tồn đọng. Trong cabin lái, xác hai cô gái
trẻ ôm nhau chết cứng. Tàu Chi Mai tiếp tục được đưa lên cao, nước tràn
ra từ các lỗ Abblouse (lỗ có kính tròn để cho thuỷ thủ có thể quan sát
bên ngoài hay mở ra để nhận lấy gió khi những ngày biển êm gió lặng).
Nước chảy tràn ra cho thấy bên trong, xác người dằn xẹp xuống như cá
được đóng vào hộp vậy....
Cuối cùng tàu Chi Mai được đặt
trên boong cần cẩu 100 tấn, sau khi các kè được chêm chặt hai bên hông
tàu Chi Mai. Chúng tôi thấy bên hông phía tay phải của tài Chi Mai có
một lỗ thủng to hình dạng tròn méo mó phần phía trước của lổ thủng bị
tét ép vào phía trong thân tàu chứng tỏ khối thuốc nổ được đặt từ bên
ngoài. Xác người bên trong chắc phải còn đủ cả vì lỗ thủng nầy, xác
người không thể trôi ra được, vì tàu bị chìm nghiêng về phía nầy, bùn
non và đất sét còn bám chặt cả một bên thân tàu.
Xác
nguời được đưa ra khỏi tàu Chi Mai đưa lên bến phà Cát Lái lập tức các
túi hành lý bị tụi công an Việt cộng tịch thu đem lên xe cây ngay lập
tức
Chỉ huy bốc dỡ các tử thi nầy là Đại tá Việt cộng Đinh Mười,
truởng phòng cảnh sát phòng cháy chửa cháy thành phố Sàigòn; và một tên
đại tá khác của phòng cảnh sát trên sông. Lúc bấy giờ bí thư thành uỷ là
Võ Văn Kiệt.
Tổng cộng xác chết được đem ra là 426 xác cả nam
lẫn nữ. Tôi đã không dám ăn thịt cá tôm cua hơn nửa năm trời, mặc dù lúc
bấy giờ công nhân kỹ thuật thuộc tổng cục đường biển như tôi mỗi tháng
chỉ mua được 2 kí thịt heo cho nhu yếu phẩm mà thôi.
Thằng Lương Văn Út tài công chiếc tàu Chi Mai còn sống nhăn răng tại Sài
Gòn. Sau vụ nổ tàu Chi Mai, Cộng Sản không có cách gì che giấu được, vì
hơn 170 hành khách nhà nghèo loại đóng 5 cây vàng cho một đầu người,
phải chịu cảnh đứng ngồi như cá hộp. Họ hiểu đi tàu trong hoàn cảnh đó
sẽ bị ướt lạnh khi trời mưa giông, vì cả hai thứ nước mưa và nước sóng
biển.
Họ chắc chắn hiểu được thân phận, và những rủi ro
có thể mang đến cho họ khi bị say sóng, hoặc sóng to chụp phủ lên tàu có
thể cuốn họ xuống biển, nên họ chịu rất nhiều tổn phí để kiếm mua phao
vì thời ấy của đó là hàng quốc cấm, không có chợ nào được bày bán cả.
Ngay cả như tôi, thuyền trưởng tàu kéo cấp ba (có công suất trên 1200 mã
lực) là loại chỉ đếm trên đầu ngón tay vào năm 1989, vẫn không có áo
phao cho cá nhân của mình nửa đó. Chỉ cấp loại xốp bình cà rem (Styro
foam) nhét vào áo khỉ (monkey vest) như áo “bộ đội” VC mang băng đạn AK
vậy, nhưng vẫn phải ghi tên và chức vụ bằng nước sơn đỏ, và điều nầy
phòng vật tư của Công Ty làm sẵn phát cho tàu, nếu bị mất phải làm báo
cáo và kiểm điểm như mất súng vậy.
Chính các phao nầy đã
giúp cho hầu hết những nguời trên boong nầy thóat ra khỏi tàu Chi Mai
ngay lúc nó nghiêng chìm. Chỉ có những người thông thuộc với sông nước
nên ỷ lại không mặc vào, có thể bị chết, hoặc thoát, hay tù sau vụ chìm
nầy. Điều tôi nói đây có kiểm chứng, vì 4 ngày sau đó, những xác chết
trôi nổi trên sông Nhà Bè, Phú Xuân, Soài Rạp, Lòng Tàu, cũng như trôi
dạt vào những miệng đáy đóng trên sông để bắt tôm cá. Người dân đã báo
cho chính quyền đem đi mai táng hoặc trả xác lại cho thân nhân.
Còn cảnh công an Việt cộng bắn vào người vượt biên hôm đó, chính mắt
những người đóng đáy thấy, thủy thủ tàu CSG 92 và xà lan 64 thấy, công
nhân nhà máy Vavioil và những cư dân trên bờ sông nhà bè phía đèn xanh
đều thấy hết. Chưa hết đâu! Những người đi “đăng ký”, tập trung tại bến
xe Văn Thánh ngoài ngã ba Hàng Xanh để cho xe bus đưa vào bên phà Cát
Lái, nhưng còn hai xe bus chót chưa vào tới bến phà Cát Lái thì mìn đã
nổ. Không biết rằng vì xe bus đến chậm hay thằng công an tay nghề quá
zỏm, gài kim định giờ không chính xác?! Điều nầy từng xảy ra trong thời
chiến qua các vụ đặc công Việt cộng đánh các cầu Bình Triệu, Bình Lợi,
Tân Cảng... Đặc công Việt cộng ôm mìn lội ven sông để gài giật xập cầu,
nhưng lội chưa tới nơi thì mìn phát nổ. Báo chí phổ biến tin tức, lính
địa phương quân giữ cầu đều biết chuyện nầy!
Việc Cộng
sản bắn chết người thường dân vô tội đâu có phải là điều hiếm hoi ở
trong thời chiến cũng như thời bình. Hơn nữa VC đã dán bản cáo trạng
khắp hai miền đất nước rằng “VƯỢT BIÊN LÀ PHẢN QUỐC”. Vì vậy chúng sợ ai
không dám bắn?! Hơn nữa VC bắn để cướp của, vì người bị chúng bắn là
thành phần tư bản, bị VC ghép vào tội phản quốc bóc lột.
Còn 2 chiếc xe bus chở người vượt biên đến sau, khi thấy tàu Chi Mai bị
phát nổ, bọn công an liền ra lệnh cho quay đầu lên hướng nhà tù Thủ Đức
tạm trú qua đêm và sáng hôm sau chở thẳng lên Bù Đóp nhốt cho đến gần 4
tháng. Sau đó, chúng đưa xuống cù lao Rồng ở Mỹ Tho cho “đi bán chính
thức”, với điều kiện thêm 3 cây một đầu người.
Ngoài ra, còn vụ
cho chìm tàu khách Vũng Tàu tại ngã ba Thiềng Liềng năm 1979 để cướp
tiền cướp của nữa. Vụ này Việt cộng bán bãi xong, trở giọng lật lọng bắt
khách ra đi đa số là người Bắc di cư năm 1954 và giáo dân ở giáo xứ Tân
Định, Bà Chiểu, trong đó có con của nhạc sĩ Lê Văn Thiện, hòa âm cho
ban nhạc Shootgun của ca sĩ Thanh Thuý.
Thuyền Trưởng Tàu CSG-92
ThíchHiển thị thêm cảm xúc
Bình luận
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen